Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”

Bài làm

“Vào phủ chúa Trịnh” được trích từ “Thương kinh kí sự” của tác giả Lê Hữu Trác. Qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, con mắt quan sát tinh tường tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực cuộc sống trong phủ chúa. Qua đó toát lên giá trị hiện thực, phê phán sâu sắc của tác phẩm.

Trước hết đó là bức tranh về cuộc sống đầy xa hoa nơi phủ chúa. Khi được triệu vào kinh thành để khám bệnh cho Thế tử, Lê Hữu Trác – “vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết” vậy mà ông cũng phải kinh ngạc khi đứng trước khung cảnh phủ chúa: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của chúa thực chẳng khác người thường”.

Cảnh vật trong phủ chúa hết sức lạ lẫm, những cái cây lạ lùng những hòn đá kì lạ phô ra trước mắt tác giả. Trong phủ chúa đâu đâu cũng thấy cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, từng cơn gió thoang thoảng đưa hương. Thực “cả trời Nam sang nhất là đây”. Cách bài trí, trang trí trong phủ hết sức tráng lệ, cầu kì: “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, nhưng đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Khung cảnh cực kì sa hoa, lộng lẫy mà không ở đâu có thể sánh nổi. Nhưng đằng sau khung cảnh ấy tác giả cũng ngầm báo hiệu một điều chẳng lành ở phía trước, bởi khi cuộc sống trong phủ chúa còn xa hoa hơn nơi ở của vua thì hẳn triều đại đó đã có nhiều biến động, chúa tiếm quyền vua. Qua đó tác giả kín đáo phê phán lối sống xa hoa, trụy lạc của phủ chúa Trịnh.

Bên cạnh đó, khi miêu tả khung cảnh giàu sang, phú quý này tác giả còn ngầm báo hiệu sự suy vong và bị tiêu diệt tất yếu. Cuối tác phẩm, khi Lê Hữu Trác đã về đến Hương Sơn thì nghe tin nhà quan chánh đường bị hại, bấy giờ ông có viết: “Tôi nghe chuyện than rằng: – Giàu sang như mây nổi, những nơi đàn sáo lâu đài trước đây bỗng chốc thành gò hoang cồn vắng. Lại mừng thầm rằng mình đã ẩn thân nơi núi rừng, chẳng đoái hoài gì tới chuyện công danh thành đạt….”. Như vậy việc miêu tả kĩ lưỡng khung cảnh quyền quý, cao sang nơi phủ chúa ở trích đoạn này chính là bước đệm để tác giả nên lên triết lí ở cuối bài: “giàu sang như mây nổi” chẳng mấy chốc rồi cũng gặp cảnh bại vong.

Không chỉ miêu tả khung cảnh quyền quý, xa hoa, tác giả còn cho thấy cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Vào phủ chúa, có tên đầy tớ chạy phía trước thét đường, cáng chạy như ngựa lồng, cho thấy nhịp độ hết sức nhanh chóng, khẩn trương. Đến phủ chúa để đi tới nơi khám bệnh cho thế tử phải đi qua nhiều lần cửa, mỗi lần cửa cần phải có thẻ mới được đi tiếp. Các danh y chữa bệnh cho thế tử đều là những người tài giỏi, nổi tiếng ở sáu cung, hai viện ngày đêm túc trực, chờ sẵn để chữa bệnh cho thế tử. Thủ tục rườm rà, nghiêm ngặt, phải hết sức kính cẩn: Thế tử bị bệnh có đến 7,8 thầy thuốc phục dịch. Khi vào xem bệnh, tác giả – một cụ già – phải quỳ lạy thế tử – một đứa trẻ. Muốn xem thân hình của thế tử phải có một viên quan nội thành đến xin phép được cởi áo cho thế tử. Khám xong phải lạy 4 lạy mới được ra về. Trước khi được vào khám bệnh cho thế tử, Lê Hữu Trác đã được ngự bữa cơm sáng với: “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại già” cuộc sống xa hoa quyền quý choán đầy phủ chúa từ nơi ở, vật dụng, quang cảnh cho đến đồ ăn thức uống. Qua đó ta thấy được quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống xa hoa và sự lộng quyền của nhà chúa.

Đặc biệt, ngòi bút hiện thực của tác giả còn được thể hiện trong việc miêu tả các chi tiết liên quan đến thế tử. Thế tử ngồi trên sập chỉ độ năm sáu tuổi, nhưng Lê Hữu Trác – một người già cả, phải lạy bốn lạy trước cậu bé này và còn được thế tử cười khen: “Ông này lạy khéo!”. Ngoài ra tác giả còn miêu tả hết sức kĩ lưỡng về thế tử mặc áo lụa đỏ, ngồi trong căn phòng tối om không có cửa ngõ, phải qua năm sáu lần trướng gấm mới xuất hiện thế tử. Nơi ở của thế tử đều được sơn son thếp vàng, trên ghế bày đệm gấm, đây đều là những vật dụng đắt tiền. Qua ánh nến mờ ảo, Lê Hữu Trác nhận thấy “màu mặt phấn và màu áo đỏ”. Nơi ở của thế tử hế sức ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí và đây chính là nguyên nhân khiến thể trạng thêm phần ốm yếu. Một đứa bé đang độ tuổi ăn, tuổi chơi, đáng nhẽ phải được chạy nhảy chơi đùa cùng chúng bạn, được hòa cùng thiên nhiên để phát triển một cách khỏe mạnh, thì thế tử Cán lại bị giam hãm, cầm tù nơi lầu son, gác tía với trướng rủ màn che thiếu sinh khí, ngột ngạt, chính cảnh tù túng đó đã khiến bệnh của thế tử ngày một nặng hơn: “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mồm, thương tổn quá mức”. Chỉ bằng một vài nét phác họa, những câu miêu tả khách quan tác giả đã cho thấy hình ảnh thế tử Cán gầy gò, ốm yếu cả về cở thể lẫn ý chí, nghị lực.

Để miêu tả hiện thực trong chủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác đã vận dụng khả nặng quan sát tinh tường, khung cảnh bài trí trong phủ chúa được miêu tả chi tiết kĩ lưỡng: quang cảnh thiên nhiên, sự vật, cung cách sinh hoạt, thế tử Cán. Không chỉ vậy sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, cùng những câu nhận xét, bình luận đã phô bày rõ hơn sự xa hoa trong phủ chúa. Giọng điệu châm biếm, mỉa mai một cách nhẹ nhàng thể hiện thái độ của tác giả trước lối sống quyền quý đó.

Dù chỉ là một trích đoạn vô cùng ngắn ngủi, nhưng với ngòi bút tài hoa của Lê Hữu Trác đã phô bày một cách chân thực và đầy đủ nhất hiện thực cuộc sống trong phủ chúa, cũng là hiện thức xã hội lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy là lời phê phán với lối sống xa hoa, hưởng lạc, đồng thời cũng dự báo về sự suy vong tất yếu của nơi đây.

Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”

Bài làm

Nhà văn Stanhdal đã từng viết: “Văn chương là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội”. Văn chương mang sứ mệnh của mình là phản ánh hiện thực “nhà văn là thư kí trung thành của thời đại”. Cũng giống như các thể loại văn học khác, thể kí đã ghi chép trung thực lại bối cảnh một thời đại của dân tộc. Thể kí trưởng thành thực sự có những nét phát triển mới ở thế kỉ XVIII với tác phẩm “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác. Tác phẩm viết về những điều mà tác giả được chứng kiến khi trên đường vào kinh chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Tiêu biểu là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần đầu mang giá trị hiện thực sâu sắc phản ánh và phê phán cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ chúa đồng thời thể hiện cái nhìn và thái độ sống của tác giả.

Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực xã hội, con người được nhà văn phản ánh trong tác phẩm, tùy vào ý đồ sáng tạo của cá nhân tác giả mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc ít nhiều bị khúc xạ đi bởi lăng kính tâm hồn của nhà văn. Cùng với giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm văn học, lưu danh muôn thở tên tuổi của nhà văn chân chính.

Lê Hữu Trác vốn là một con người “lánh đục về trong” giữa thời buổi loạn lạc, sống trong một thời đại mục nát ông không màng danh lợi trở về quê ngoại Hương Sơn (Hà Tĩnh) để chữa bệnh và mở lớp dạy nghề thuốc. Vì tài năng y thuật nổi tiếng mà ông được mời vào phủ chúa Trịnh chữa bệnh cho Thế tử.

Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một bức tranh hiện thực về cuộc sống sang trọng, quyền uy ở Trịnh phủ với quang cảnh lộng lẫy, xa hoa được tác giả miêu tả chi tiết, tỉ mỉ. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Một khung cảnh nên thơ chữ tình, làm say đắm lòng người. Lê Hữu Trác phải thật là con người có một tâm hồn tinh tế mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp như tiên cảnh nơi đây. Cùng với đó là một cái nhìn bao quát của “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. Một cung điện nguy nga, tráng lệ hiện ra trước mắt với sự giàu sang của vua chúa khác hẳn với người thường. Qua mấy lần của mới đến cái điếm trong ấy có những cây, những hòn đá lạ rồi cột và bao lơn lượn vòng với kiểu cách rất là xinh đẹp. Tác giả vốn là con nhà quan sinh trưởng ở chốn phồn hoa đô hội nhưng đây là lần đầu tiên được vào phủ Chúa nên rất ngỡ ngàng, ngạc nhiên có rất nhiều thứ chưa từng thấy.

Màu sắc chủ đạo là màu đỏ và vàng son rực rỡ càng điểm tô thêm sự giàu sang nơi Trịnh phủ. Ấy là”Cái nhà cao và rộng”, “Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng”, “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy” rồi cả “những cái cột đều sơn son thếp vàng”…Không chỉ vậy mâm cơm của người nhà giàu là “mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Tất cả những điều đó đều được lấy từ mồ hôi, công sức, xương máu của nhân dân. Những người dân lam lũ phải bươn trải, phải bỏ mạng để xây dựng nên công trình kiến trúc đồ sộ, làm nên sự xa hoa của cuộc sống nơi đây. Chính vua chúa quan lại, cường quyền đã bóc lột, đã cướp đi thành quả lao động của những dân đen lầm than. Dù không giết người trực tiếp nhưng cũng chẳng khác gì việc làm của giặc Minh ngày ấy:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Cứ ngỡ rằng cuộc sống sung túc thì mọi thứ đều tốt đẹp nhưng không khí nơi đây lại không hề được trong lành, dù có mùi hương ngào ngạt ấy thế mà lại tù đọng, ngột ngạt vô cùng. Chính điều đó là nguyên nhân khiến cho Thế tử_con trời mà mắc bệnh mãi không khỏi. “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ tạng yếu đi.” Một con người sống trong nhung trong lụa, ăn sơn hào hải vị mà không vận động không bệnh ắt cũng phải có bệnh. Đây là căn bệnh của người nhà giàu. Tác giả thật tinh tường khi đã sớm nhận ra cái “khiếm khuyết” ở một nơi tưởng chừng như hoàn hảo nhất của “Cả trời Nam sang nhất là đây”.

Cuộc sống cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa cũng chẳng khác gì hoàng cung, mọi thứ đều đi theo một trật trự, quy củ phép tắc nghiêm ngặt. “Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi.Vệ sĩ canh giữ cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ”, “Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt’ là vậy. Điều đó cho thấy quyền uy của chúa thật to lớn. Muốn gặp được thế thử đâu phải dễ dàng phải đi qua năm, sáu lần chướng gấm, phải lạy bốn lạy mới được lui ra. Những luật lệ sinh hoạt nơi đây làm cho tác giả dường như có phần rụt rè, e ngại mất tự nhiên khi thì chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu”, khi thì “nín thở” rồi lại “khúm núm”.

Vì những lẽ ấy lại thêm chẳng màng danh lợi mà cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra cam go ở khoảnh khắc kê đơn thuốc. Nếu chữa khỏi ngay thì phải ở lại mà không thể về núi nhưng chẳng thể vì mong muốn cá nhân mà quên đi chữ “Trung” của người làm phận bề tôi, chữ “Đức”của người nghề thầy thuốc một lòng vì việc cứu chữa bệnh không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, người tốt hay kẻ xấu

“Thiện tâm cốt ở cứu người

Sơ tâm nào có mong cầu chi đâu”.

Bức tranh hiện thực cuộc sống xa hoa nơi Trịnh phủ đã được Lê Hữu Trác khắc họa thật chân thực, rõ nét qua từng chi tiết miêu tả. Tác giả lựa chọn, tổ chức, sắp xếp các sự kiện, nhân vật theo tuyến tính thời gian, không gian theo từng bước và cái nhìn, sự quan sát tinh tế của mình. Sử dụng ngôi kể thứ nhất nhân vật xưng tôi cùng với những câu văn linh hoạt làm cho hiện thực càng trở nên thực hơn và thu hút, lôi cuốn người đọc. Nếu như bút pháp đặc trưng của văn học trung đại là miêu tả ước lệ tượng trưng, khuôn mẫu quy phạm thì trong đoạn trích tác giả đã thực hiện “giải quy phạm” không còn những công thức nghiêm ngặt mà trở về với cuộc sống hiện thực với những điều tai nghe mắt thấy.

“Con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”

Bọn vua chúa phong kiến đa số đều là những tên cướp ngày. Chúng cướp của, cướp sức, cướp công, cướp chí của nhân dân ta một cách trắng trợn bằng những thủ đoạn công khai để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống.

Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” mang giá trị hiện thực sâu sắc một mặt phê phán lối sống xa hoa, giàu sang với quyền uy tột bậc nơi Trịnh phủ, một mặt đồng cảm thương xót cho số phận và cuộc sống của những người dân nghèo. Qua đó cũng cho thấy nhân cách cao thượng, tấm lòng y đức và lối sống thanh cao của Lê Hữu Trác là tấm gương sáng cho ngành y bác sĩ, xứng đáng là ông tổ của nghề thuốc được người đời sau nhắc đến với một lòng thành kính nhất.