Đề bài: Bình giảng bài thơ “Tự tình II” (Hổ Xuân Hương)

Bài làm

“Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương thường cổ giọng thơ khinh bạc, mía mai. Bên cạnh giọng thơ khỉnh bạc ấy, ta lại bắt gặp một trong những bài thơ tả cảnh ngụ tình khá sâu sắc và ỷ tứ chân thành nhằm giãi bày tâm sự của mình. Bài thơ “Tự tình II” là một trường hợp như vậy!

Đêm khuya cô dơn.

Hai câu đề là cảnh đêm về khuya, tiếng trống canh từ xa vâng vẳng mà dồn dập đổ về. Trong thời điểm ấy, nhân vật trữ tình lại trơ trọi đáng thương và “cái hồng nhan” đã cụ thể hoá một cá thể đang cô đơn, thao thức và dằn vặt.

Hồng nhan nhằm để nói “phái đẹp” nhưng lại được trước nó là trạng từ “trơ”, khiến cho câu thơ đậm đặc cái ý chán chường. Rồi lại -cái hồng nhan” thì quả là khinh bạc.

Lấy “hồng nhan” mà dem dối với “nước non” thì quả thật là thách thức nhưng cũng thật sự là mỉa mai, chua chát. Phép tiểu đối thật đắt và thật táo bạo nhưng phù hợp với tâm trạng đang chán chường, trong hoàn cảnh đang cô đơn, trơ trọi. Nỗi cô đơn ngập đầy tâm hồn đến mức phải so sánh nó ngang bằng với các hình tượng của thiên nhiên tạo vật.

Hai câu thơ diễn tả tình cảnh cô đơn của người phụ nữ trong đêm khuya 1 thanh vắng. Đó là nỗi dằn vặt và sắp bộc lộ, giãi bày một tâm sự.

Cảnh ngụ tình.

Đến hai câu thực ta nghe thoảng men rượu từ cơn say trước đó nhưng đã thoảng bay đi. Hương rượu chỉ sự thề hẹn (gương thề, chén thề) nhưng hương đã bay đi dù tình còn vương vấn. Cá thể đã tỉnh rượu nên càng nhận ra nỗi trống vắng, bạc bẽo của tình đời.

Trăng gợi lên mối nhân duyên, nhưng trăng thì “khuyết chưa tròn”, ngụ ý tình duyên chưa trọn, không như mong ước, khi mà tuổi xanh đã lần lượt trôi đi.

Hai câu luận là nỗi bực dọc, phản kháng, ấm ức duyên tình.

Hình ảnh hết đám rêu này đến đám rêu khác “xiên ngang mặt đất” như trêu ngươi nhà thơ. Rêu phong là bằng chứng về sự vô tình của thời gian, nó là hiện thân của sự tàn phá chứ không phái chở che cho tuổi đời. Thế rồi nhà thơ bực dọc vì tuổi xuân qua mau, đời người ngắn ngủi, nhỏ bé, nên:

“Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.

“mấy hòn đá”không những đứng sừng sững ở chân mây mà còn “đâm toạc” thể hiện thái độ ngang ngạnh, phản khổng, ấm ức của nhà thơ về duyên tình lận đận…

Lời than thở.

Lời than thở cũng chính là chủ đề của bài thơ. Năm tháng cứ trôi qua, xuân đi rồi xuân lại tới mà duyên tình vẫn chưa được vuông tròn. Xuân thì đi rồi trở lại với thiên nhiên đất trời, nhưng lại vô tình, phũ phàng với con người.

Kẻ chung tình không đến, người chung tình thì cứ chờ đợi mỏi mòn mà thời gian thi cứ trôi đi, tuổi xuân tàn phai. Mảnh tình quanh đi quẩn lại vẫn chỉ là “san sẻ tí con con”. Câu thơ cực tả tâm trạng chua chát, buồn tủi của chủ thể trữ tình.

Tổng kết

Có đa tình mới tiếc xuân, trách phận và mới có giọng tự tình. Giọng thơ đầy đủ cả sắc thái tình cảm: tủi hổ, phiền muộn, bực dọc, phán khảng rồi kết bằng chua chát, chán chường vì tình duyên chưa trọn.

Hồ Xuân Hương đã góp vào kho tàng thơ Nôm Việt Nam một tiếng thơ táo bạo mà chân thành, mới lạ mà vẩn gần gũi với thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công ngày ấy. Đó là một xã hội đã làm cho biết bao nhiêu thân phận “hồng nhan” bị lỡ làng và khổ đau.

Khát vọng của Hồ Xuân Hương về mưu cầu hạnh phúc lứa đôi cùng chính là khát vọng của muôn vàn phụ nữ: một khát vọng chính đáng.