Đề bài: Phân tích tác phẩm Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi.

Bài làm

Nguyễn Trãi danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Bên cạnh những tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật, còn có những tác phẩm giàu tính chiến đấu, và một trong những tác phẩm đó không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm là bản tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian lao mà cũng vô cùng hào hùng của dân tộc.

Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi huy hoàng, đã tiêu diệt viện binh của giặc. Lúc này, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan để chờ hai đạo viện binh do hai tướng giỏi của nhà Minh chỉ huy là Liễu Thăng và Vạn Thạnh, nhưng hai đạo quân này đã bị quân ta chặn đánh, Vương Thông viết thư xin hàng và rút quân về nước. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân về việc dẹp yên giặc Ngô. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, được ban bố vào đầu năm 1428.

Phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Trãi nêu lên luận đề chính nghĩa: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Nhân nghĩa vốn được hiểu là lòng yêu thương con người. Nhưng với Nguyễn Trãi, yêu thương ấy phải được thể hiện bằng hành động cụ thể: “cốt ở yên dân”, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, mà trước hết là phải trừng trị kẻ có tội, bấy giờ chính là giặc Minh xâm lược. Như vậy, nhân nghĩa của ông xuất phát từ lòng yêu dân, mong cho dân có cuộc sống yên ổn. Đây là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi, đồng thời đây cũng là lần đầu tiên người dân xuất hiện với vị trí quan trọng trong văn kiện có tầm cỡ thời đại.

Phần tiếp theo, ông đưa ra năm yếu tố cơ bản để khẳng định sự tồn tại có chủ quyền của nước Đại Việt. Nền độc lập của ta được dựa trên: Cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, truyền thống lịch sử và chủ quyền riêng “mỗi bên xưng đế một phương”. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất – Nam quốc sơn hà.

Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa, bằng giọng văn đanh thép Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác của giặc Minh. Để tố cáo tội ác của chúng, ông đứng trên lập trường dân tộc, sử dụng ngôn ngữ hết sức chuẩn xác: nhân, thừa cơ cho thấy luận điệu bịp bợm của giặc Minh: phù Trần diệt Hồ. Không chỉ vậy ông còn đứng trên lập trường nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù khi chúng cai trị nhân dân ta. Chúng hủy hoại cuộc sống của con người bằng những hành động hết sức dã man: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. Không dừng lại ở đó chúng còn hủy hoại môi trường sống của muôn loài cây cỏ; Các chính sách thuế khóa nặng nề, vơ vét cho bằng hết sản vật của nước ta, tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, tiêu diệt đường sống muôn loài. Chúng sử dụng dân ta như một công cụ để phục dịch cho chúng: người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,… Những tội ác của chúng thấu đất, vang tới tận trời xanh, không thể dung thứ: Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần nhân chịu được. Câu hỏi vang lên như một lời cảnh cáo, cũng thể hiện niềm đau xót của tác giả trước thảm cảnh mà nhân dân phải hứng chịu. Với những hình ảnh đối lập tương phản, giàu giá trị gợi cảm tác giả đã tố cáo một cách đanh thép nhất tội ác của kẻ thù.

Sau những lời văn thống thiết, nhưng cũng đầy mạnh mẽ, tiếp đến Nguyễn Trãi kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và thắng lợi tất yếu của quân dân ta. Trong những buổi đầu khởi nghĩa, tình thế quân ta hết sức khó khăn, quân thù đang vào thời điểm mạnh nhất, quân ta thì Tuấn kiệt như sau buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu. Tương quan đó khiến cuộc khởi nghĩa càng trở nên khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Lê Lợi, quân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc: Ngẫm thù lớn há đội trời chung/ Căm giặc nước thề không chung sống và ông mang trong mình lòng quyết tâm lớn tiêu diệt quân xâm lược, mang lại bình yên cho nhân dân. Ông không chỉ coi trọng người hiền tài mà còn coi trọng vai trò của nhân dân: Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới. Tất cả người dân nhỏ bé, thấp kém nhất đều được tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi. Đây là lần đầu tiên người dân được đưa vào vị trí trang trọng đến vậy. Điều đó đã tạo nên sự thống nhất một lòng, đoàn kết toàn dân tộc. Chính sự đoàn kết đó đã đem lại hết thắng lợi này đến thắng lợi khác cho nhân dân ta: Đánh một trận, sạch không kình ngạc/ Đánh hai trận, tan tác chim muông/ Nổi gió to trút sạch lá khô/ Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.

Lời tuyên bố chiến thắng, mở ra kỉ nguyên độc lập của dân tộc thật dõng dạc, tràn đầy niềm tự hào: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới, đất nước ta bước vào thời kì tự chủ, thịnh vượng dưới triều đại mới. Đồng thời ông cũng rút ra những bài học lịch sử: Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh, để khẳng định niềm tin vào vận mệnh mới của dân tộc sau khi đã trải qua những cơn bĩ cực. Đồng thời ông cũng khẳng định, chiến thắng chúng ta có được là nhờ sự kết hợp sức mạnh của thời đại và sức mạnh truyền thống dân tộc: Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.

Văn bản là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương. Kết cấu văn bản chặt chẽ, lập luận vô cùng sắc bén, lời văn đanh thép tố cáo tội ác giặc, hùng hồn, hào sảng khi nói về chiến công của nhân dân ta. Nhưng bên cạnh đó cũng đậm chất văn chương nghệ thuật với những câu văn giàu cảm xúc, giàu hình tượng, giàu giá trị tạo hình, gây ám ảnh sâu sắc với người đọc.

Tác phẩm là bài ca ngợi ca cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần kì đã chấm dứt sự xâm lược của giặc Minh. Đồng thời cũng là bản tố cáo đanh thép, dõng dạc những tội ác mà giặc Minh phạm với nhân dân ta. Bên cạnh đó Đại cáo Bình Ngô còn là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn bất hủ của muôn đời.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.

Bài làm

Sau hai mươi năm của cuộc kháng chiến chống quân Minh và sau hơn mười năm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1416 – 1427), bản Đại cáo bình Ngô ra đời là một điều tất yếu. Trên phương diện hành chính quan phương, đây là một văn kiện lịch sử nhằm thông báo, tuyên bố rộng rãi về nền độc lập của dân tộc sau nhiều năm gian truân, khổ cực, “tướng sĩ một lòng”. Nhưng đây còn là một áng văn yêu nước hùng tráng, kết tinh của biết bao nhiêu trái tim yêu chuộng hòa bình của dân tộc, mà tác giả Nguyễn Trãi là người đã thổi hồn vào đó qua từng con chữ, câu văn. Mạch cảm xúc không vì thế mà khô khan, cứng nhắc như vốn có, ngược lại đầy cháy bỏng, tha thiết… để mỗi chúng ta được ôn lại truyền thống oai hùng của lịch sử đất nước.

Cáo là một thể loại quen thuộc, cũng như chiếu, biểu, hịch,… mà trong chốn cung cấm tôn nghiêm hay dùng để ban những sắc lệnh quan trọng trong một thời điểm của vua hoặc người đứng đầu. Nhưng Bình Ngô đại cáo là một bản đại cáo khác xa với ý nghĩa thông thường, mang tính thời vụ đó. Bởi Nguyễn Trãi đã đưa khát vọng, niềm tự hào, kiêu hùng của nhân dân và của chính bản thân ông để một văn kiện lịch sử nhằm thông báo sự kiện trọng đại có tính chất quốc gia này mang theo một sức sống trường tồn, bất hủ. Tuy viết bằng chữ Hán, song bản dịch hiện hành cho đến giờ gần như không có độ chênh lệch lớn, vẫn bảo toàn nguyên vẹn ý nghĩa gốc. Bố cục bài cáo bốn phần rõ ràng, mạch lạc. Đoạn 1, nêu luận đề chính nghĩa. Đoạn 2, vạch trần tội ác của giặc Minh. Đoạn 3, cuộc khởi nghĩa đầy gian khổ và tất thắng của quân và dân ta. Đoạn 4, lời tuyên bố độc lập. Qua ngòi bút đầy tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã viết nên một áng văn chính luận xuất sắc, đỉnh cao và trở thành mẫu mực cho văn chương chính luận trung đại Việt Nam.

Mở đầu bài cáo, tác giả viết:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nhân nghĩa – một tư tưởng quen thuộc, nhắc tới cách hành xử tốt đẹp giữa người với người trong quan niệm đạo đức Nho gia. Tại sao Nguyễn Trãi lại đề cập đến ngay ở đầu bài cáo. Đây chẳng những là lí tưởng đạo đức suốt đời trong sự nghiệp cống hiến cho đất nước cũng như sáng tác văn chương của ông, mà còn là một điều mới mẻ, được nâng lên một tầm cao về mặt ý nghĩa so với trước đó. Bởi cốt lõi nhân nghĩa mà Ức Trai tôn thờ là yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Vậy trong hoàn cảnh ngoại bang, “quân điếu phạt” Minh xâm lược, muốn dân được yên không gì khác ngoài việc phải lo trừ bạo. Tức là vì thương dân mà phải diệt trừ lũ bạo ngược đã hại dân, bao gồm bọn giặc Minh với ách đô hộ đầy hà khắc và cả bọn bán nước trục lợi, cầu vinh. Trên nền tảng lấy “dân làm gốc”, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Biết dựa sức mạnh vào dân là phương kế chính trị lớn lao đem lại thắng lợi to lớn cho dân tộc ở mọi thời đại. Bởi vậy, nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo nói riêng và cả sự nghiệp văn thơ Nguyễn Trãi đã trở thành một đạo lý dân tộc, một lí tưởng xã hội sáng ngời.

Từ lập trường nhân nghĩa ấy, tác giả đã xây dựng một cơ sở lí luận vững chắc, nêu lên được luận đề chính nghĩa ở ngay phần mở đầu của bài cáo.

Như nước Đại Việt ta từ trước

Chứng cớ còn ghi.

Đây là đoạn văn đã chạm khắc vào lịch sử dân tộc những giá trị bất khả xâm phạm về nền độc lập một cách đầy đủ nhất. Lối lập luận so sánh sắc bén, đa chiều đã khẳng định những phương diện cốt lõi để định danh chủ quyền của mỗi quốc gia. Bỏ qua yếu tố lớn nhỏ, mạnh yếu mà cân nhắc, xem xét ở những điều có hay không. Văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt Đại Việt ta so với Đại Hán, Bắc phương đều có cả, thậm chí tương xứng, song hành. Cái hay mà Nguyễn Trãi đem lại không những khẳng định được nền độc lập dân tộc mà còn cho thấy cả quá trình để sức sống độc lập ấy tồn tại đầy mãnh liệt. Chỉ một đoạn văn nhỏ mà thấy cả dòng chảy lịch sử suốt năm trăm năm, với sáu lần đánh bại quân thù. Không còn điều gì có thể tự hào hơn, không còn điều gì có thể thay đổi chân lý đó. Những chứng cớ lịch sử năm xưa lại càng “khóa chặt” cho cơ sở lí luận về nền độc lập dân tộc, về sự chính nghĩa trong công cuộc trường chinh bảo vệ đất nước của vua tôi nhà hậu Lê.

Chủ quyền quốc gia độc lập, vậy nếu bất cứ kẻ nào xâm phạm đều mang trong mình trọng tội. Bè lũ gặc Minh và bọn bán nước cầu vinh lúc bấy giờ thì:

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Cớ gì mà vị quân sư chính trực của Lê Lợi lại khẳng định một cách tận cùng về tội ác của bọn chúng như vậy? Cả một đoạn văn có lẽ thấm đẫm nước mắt, căm hờn sục sôi mà bao lâu nay bị dồn nén được Nguyễn Trãi viết ra một cách tường tận. Từ âm mưu xâm lược thâm độc Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ thừa cơ gây họa, lợi dụng tình hình rối ren của đất nước do nhà Hồ gây ra, chúng mang theo luận điệu xảo trá phù Trần diệt Hồ, nhằm bịp bợm nhân dân. Đến những hành vi xâm lược, bóc lột tàn bạo, dã man không thể diễn tả nổi. Dưới góc nhìn của Nguyễn Trãi, qua lăng kính của tư tưởng nhân nghĩa, yên dân thì tội ác không thể chấp nhận được của bọn chúng là dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế. Vì vậy bút pháp phóng đại, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giọng điệu đanh thép đã chắp bút để ông vạch trần bộ mặt man rợ, trắng trợn của bè lũ cướp nước. Thật đau xót, tê dại khi nhớ lại:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Cái đáng sợ của bọn giặc Minh là ngay cả đến dân đen, con đỏ cũng chẳng tha. Hai động từ nướng, vùi đã lột tả trần trụi đến rợn người về sự tàn sát của chúng. Nhưng đâu chỉ có vậy, chúng còn Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt, ép dân xuống biển dòng lưng mò ngọc, vào núi đãi cát tìm vàng. Biết bao người dân vô tội phải thiệt mạng vì cá mập thuồng luồng, vì bệnh tật nơi rừng sâu nước độc. Thảm cảnh Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng chỉ là một trong số vô vàn những đau khổ chúng để lại cho dân lành. Về kinh tế, chúng cũng cũng đẩy đất nước rơi vào cảnh kiệt quệ. Năng thuế khóa để bóc lột, vơ vét tài nguyên, khoáng sản, tàn phá cả nghề trồng lúa, nghề dệt vải… Đến cả giống côn trùng cây cả cũng không tha. Các từ ngữ chốn chốn, nơi nơi chỉ không gian rộng và Gây binh kết oán trải hai mươi năm chỉ thời gian dài khiến Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Tội ác của bọn chúng đúng là trời không dung, đất không tha, cả thần và nhân không chịu nổi. Bản cáo trạng như thấm đẫm cả máu, nước mắt của nhân dân mà Nguyễn Trãi đã tổng kết lại. Từng chữ, từng câu chất chứa nỗi uất nghẹn, căm hờn. Những chứng cớ về tội ác ấy là bản cáo trạng đanh thép nhất, là thực tiễn lịch sử xác đáng nhất để chứng tỏ phải diệt trừ lẽ lũ ngang tàng, bạo ngược, dối trá – giặc Minh là một việc làm đầy chính nghĩa của nhân dân ta, mà đội quân Lam Sơn là người gánh vác sứ mệnh.

Trước kẻ thù hiểm ác, thâm độc như thế, việc trừ bạo không hề dễ dàng. Ở đoạn văn tiếp theo, Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi đầu sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là chủ tướng Lê Lợi:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ nhân dân nhưng vì mến nghĩa mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương mạnh, nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều gì lại giúp Lê Lợi và cộng sự của mình thắng lợi? Đó chẳng phải là:

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.

Người chủ tướng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra được con đường chiến đấu. Vì thế, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí nhân để:

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Chính nhờ đó mà mỗi ngày, mỗi ngày lực lượng kháng chiến một lớn mạnh, lại biết tận dụng thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công và giành thắng lợi vẻ vang.

Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung ra toàn cảnh của chiến trường. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp mọi miền. Mở màn là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên Đức” là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động binh cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như sấm vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà xông lên, cứ thuận đà mà:

Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông

Quân tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:

– Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh

– Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn

Ta ở trong tư thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không khí đến cảnh tượng đều để lại thật nhiều ấn tượng:

Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.

Nhìn lại từ buổi đầu khởi nghĩa mà thấy thật là một kì tích, một sức mạnh thật phi thường.

Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước ta không khỏi ghê rợn. Nếu ta chủ động thì giặc lại rơi vào bị động, thất thế. Chúng cứ liên tục gỡ thế nguy, cứu trận đánh, bó tay để đợi bại vọng, trí cùng lực kiệt… Lũ giặc cả tướng lẫn quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt về ý chí nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn…Thất bại nhục nhã, ê chề ấy là kết cục tất yếu của bọn chúng.

Tuy nhiên, đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi – Lê Lợi vạch ra từ ban đầu vẫn luôn luôn soi tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào thế khốn cùng mà ngược lại còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường sống, cũng là để toàn dân nghỉ ngơi, lấy sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa để trở về. Vì thế thắng lợi của ta là thắng lợi của tinh thần thượng võ, của lòng nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy mà kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn sàng cởi giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, lê gối dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Giọng điệu sục sôi, khí thế, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương phản, mang tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống dậy những trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm tự hào, kiêu hãnh không chỉ là ở những chiến công mà ở sức mạnh của toàn dân quyết chí một lòng để làm nên chiến thắng vẻ vang.

Sáng đến đoạn cuối giọng điệu có phần thư thái, mang không khí mừng vui phấn khởi khi nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là nền độc lập, cảnh thái bình.

Xã tắc từ đây vững bền

Ai nấy đều hay

Vậy là từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ không còn những tháng ngày tăm tối, đau thương dưới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu nay, giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể ngẩng đầu kiêu hãnh và hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỉ nguyên xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.

Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ và dựng xây đất nước.