Đề bài: Cảm nhận về đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Bài làm

Đoạn trích thể hiện được tình yêu nồng nàn, mãnh liệt và tha thiết của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng: nỗi đau khổ xót ca, tuyệt vọng, tâm trạng bi kịch của Thúy Kiều trong đêm trao duyên và phẩm chất cao đẹp, giàu đức hi sinh của Thúy Kiều. Qua đoạn trích Nguyễn Du đã thể hiện tấm lòng nhân ái sâu sắc của ông trước những khổ đau bất hạnh của con người.

Đoạn trích cũng là một minh chứng cho tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật được miêu tả sinh động, sâu sắc với diễn biến tâm lí phong phú và phức tạp đầy mâu thuẫn.

Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng nhận được tin chú mất và phải về chịu tang chú ở Liễu Dương. Tai họa ập đến với gia đình Thúy Kiều. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em bị bắt đánh đập tàn nhẫn. Kiều buộc phải bán mình để chuộc cha và em. Mọi việc đã tạm thu xếp xong xuôi nhưng mối tình nàng với Kim Trọng bị lỡ dở. Trong đêm cuối cùng ở lại nhà, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng.

Đoạn trích Trao duyên có thể chia làm 2 đoạn:

Đoạn 1: 10 câu đầu: Thúy Kiều trao duyên nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng

Đoạn 2: Phần còn lại: Diễn biến tâm trạng Thúy Kiều sau khi trao duyên.

Nội dung đoạn trích: Đoạn trích miêu tả thái độ của Thúy Kiều khi nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng đồng thời miêu tả diễn biến tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng đầy bi kịch của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ.

Đem tình yêu của mình trao cho người khác là một chuyện bất đắc dĩ. Trong cảnh tai biến của gia đình, Kiều không còn cách lựa chọn nào khác. Chuyện vợ chồng, nhân duyên là chuyện hệ trọng của cả đời người. Trao duyên là chuyện tế nhị, khó nói nhưng Kiều đã chọn cách ứng xử thông minh và khéo léo để Thúy Vân buộc phải chấp nhân lời thỉnh cầu của nàng.

Ngay từ đầu, Kiều đã lựa chọn cho những lời lẽ thuyết phục Thúy Vân “Cậy em, em có chịu lời / Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa “. Lời nhờ cậy được nói với giọng điệu tha thiết, trang trọng, báo hiệu một chuyện không bình thường. Lời lẽ vừa trông cậy vừa nài ép. Nguyễn Du dùng từ rất chính xác và rất tinh tế. “Cậy” chứ không phải là nhờ vì từ “cậy” ngoài ý nhờ còn hàm chứa hi vọng tha thiết của người đi nhờ, người được nhờ là chỗ dựa tinh thần, là chỗ trông đợi, tin tưởng duy nhất người đi nhờ. “Chịu lời” chứ không phải là nhận lời. Nhận lời là tự nguyện còn “chịu lời” là nghe lời một cách miễn cưỡng, bất đắc dĩ. Kiều hiểu tình thế khó khăn, tế nhị của Vân bởi Vân không yêu Kim Trọng. Tình cảnh ấy khiến Vân chỉ có thể “chịu lời” chứ không thể nhận lời được một cách dễ dàng. Nếu nghe lời chị, lấy người yêu chị làm chồng, Vân phải chịu thiệt thòi, hi sinh. Có lẽ vì thế mà Kiều đã đảo lộn cả trật tự trong mối quan hệ chị em, mời em “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Kiều trang trọng nhưng nhún nhường, Nàng tự hạ mình rất thấp để cầu khấn van xin em. Kiều không đứng ở tư thế của người chị mà đứng ở tư thế của người chịu ơn để nói với Thúy Vân. Kiều chưa chính thức yêu cầu Vân giúp đỡ mà mới ngỏ lời một cách dè dặt sau đó “mặc em” quyết định. Dù trong cảnh tan nát cõi lòng, bối rồi đau khổ nhất, cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị

Để thuyết phục em, Kiều đã nói về mối tình cà cảnh ngộ khó xử của mình. Lời kể của Kiều ngắn gọn, khái quát nhưng rõ ràng có đầy đủ cá lí, sự, tình. “Kể từ khi gặp chàng Kim/ khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề/ Sự đâu sóng gió bất kì/ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.” Lời trần thuật của Kiều nồng nàn, tha thiết, bộc lộ nỗi đau đớn, xót xa. Tình yêu của Kiều và Kim Trọng đang ở độ nồng thắm nhất và hai người đã có những kỉ niệm thắm thiết, sâu nặng. Sự “sóng gió bất kì” ập đến gia đình khiến Kiều phải hi sinh tình riêng để trả hiếu cho cha, “làm con trước phải đền ơn sinh thành.” Hoàn cảnh bắt buộc Kiều đã phải hi sinh chữ “tình” để làm tròn chữ “hiếu”. Cách nói này của Thúy Kiều cốt để Thúy Vân thấy được sự hi sinh của Kiều mà thương nàng, mà chấp nhận lời thỉnh cầu của nàng. “Ngày xuân em hãy còn dài / Xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Kiều biết em còn trẻ, còn nhiều cơ hội để có tình yêu và hạnh phúc riêng mình nhưng nàng cầu xin em hãy vì tình máu mủ mà thay chị nối tơ duyên với Kim Trọng để chị có thể thanh thản ra đi. Lời cầu khẩn tha thiết như thế làm sao Vân có thể khước từ?

Sau khi nói với Thúy Vân, Kiều trao lại những kỉ vật cho em: “Chiếc vành với bức tờ mây / Duyên này thì giữ vật này của chung”. “Bức tờ mây” là tờ giấy có trang trí hoa văn ghi lời thề thủy chung của Kim, Kiều. “Chiếc vành” – đồ trang sức của phụ nữ, Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin. Đó là những kỉ vật thiêng liêng của tình yêu. Sự xuất hiện của những kỉ vật này làm sống dậy tình yêu nồng nàn, tha thiết của Kiều với Kim Trọng khiến nàng xót xa, nuối tiếc, đớn đau. Lời nói của nàng trở nên bối rối. Duyên đã trao nhưng kỉ vật tình yêu thì dường như Kiều vẫn muón giữ lại. Hai tiếng “của chung” thật xót xa đau đớn. Duyên của chị, chị đã trao lại cho em nhưng kỉ vật tình yêu thì vẫn có phần chị ở trong đó. Lí trí của nàng thì tìm cách để thuyết phục Thúy Vân, trao cho em mối tơ duyên ngắn ngủi của mình nhưng tình yêu tha thiết, mãnh liệt sâu sắc với Kim Trọng lại khiến nàng như muốn níu giữ lại tình yêu ấy, kỉ vật ấy. Tâm trạng đầy mâu thuẫn ấy của Kiều đã bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu nặng của nàng với Kim Trọng.

Sau khi đã trao duyên, nghĩa là Kiều đã lo chu đáo cho Kim Trọng, để người mình yêu thương không phải chịu cảnh “vì ta khăng khít cho người dở dang” lẽ ra Kiều có thể thanh thản, yên lòng để ngày mai ra đi theo Mã Giám Sinh, nhưng thực tế, Kiều không hề thanh thản. Ý thức tình yêu đã tuột khỏi tay, ý thức mình đã mất Kim Trọng khiến nàng thấy hối tiếc, xót xa, đau đớn đến tột cùng. Mất Kim Trọng Kiều chỉ còn tưởng đến cái chết. Tâm trạng của Kiều đầy mâu thuẫn. Nàng đã từng bước thuyết phục Thúy Vân, nếu em lấy Kim Trọng thì dẫu chị có chết cũng được “ngận cười chín suối” vậy mà giờ đây nàng thấy tương lai của mình thật là thê thảm. Nàng hình dung ra tương lai, Thúy Vân và Kim Trọng nên vợ, nên chồng còn nàng chỉ còn là một tâm hồn ma oan trái vật vờ theo gió. Hồn ma ấy vẫn mang nặng lời thề chưa trả được. Tiếng nói của trái tim đau đơn đã lấn áp cả lí trí. Nỗi đau đơn này khiến Kiều như đã trở nên mê lẫn. Trong phút chốc, nàng quên Thúy Vân đang ngồi trước mặt, cất lời nói với mình, khóc cho mình, khóc cho mối tình mình đã dày công vun đặp mà sao ngắn ngủi “Bây giờ trâm gãy gương tan.”.khóc cho “tơ duyên ngắn ngủi”, khóc cho”phận bạc như vôi” của mình. Thế giới thực trong mắt Kiều đã nhòa thành thế giới ảo, lời nói của Kiều như lời nói của cõi âm vọng về trần thế.

Trong đoạn thơ, một loạt những hình ảnh ước lệ đã được nhà thơ sử dụng để diễn tả sự đổ vỡ, tan tác, chia lìa, không thể cứu vãn nổi tình yêu của Kiều. Kiều ý thức rất rõ về sự mất mát đó và nàng đã đau đớn khôn cùng. Tình yêu với nàng là tất cả. Trao duyên nghĩa là tình đã mất. Mất tình yêu Kim Trọng nàng coi mình đã chết.

Khóc than, xót ca cho mình, Kiều mong ước nhận được sự cảm thông từ phía Kim Trọng: “Mất người con chút của tin / Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” . Trao lại kỉ vật cho em, nàng hi vọng khi Kim Trọng trở lại, tuy không gặp nàng nữa nhưng những kỉ vật của tình yêu mà nàng trao cho Thúy Vân sẽ là bằng chứng nói với chàng tình yêu thủy chung của nàng. Hoàn cảnh khách quan đã xô đẩy nàng phải từ bỏ tỉnh yêu với Kim Trọng chứ bản thân nàng không muốn vi phạm lời thề với chàng: “Phím đàn”, “mảnh hương nguyền” – những kỉ vật ấy gắn liền với đêm thề nguyền thiêng liêng của hai người trong phút chôc đã trở thành quá khứ xa xôi. Tình yêu của hai người tha thiết thế làm sao có thể kể hết “muôn vàn ái ân”. Từ độc thoại nội tâm, Kiều chuyển sang tâm sự với người yên đang vắng mặt. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”. Bao nhiêu đau đớn, nuối tiếc, xót xa trong lời giã biẹt với người yêu vắng mặt. Nàng đau đớn oán trách số mệnh “bạc như vôi”, đau đớn cho thân phận “nước chảy hoa trôi lỡ làng” của mình và đau đớn, xót xa thay cho Kim Trọng. Hình ảnh Kim Trọng hiện lên choáng ngợp trong tâm hồn Kiều. Nàng thốt lên nỗi đau đớn, tuyệt vọng vì thấy mình đã phụ Kim Trọng: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” Từ “phụ làm rõ vẻ đẹp cao thượng, giàu đức hi sinh của Kiều. Nàng đã làm việc có thể chăm lo cho Kim Trọng vậy mà giờ đây nàng vẫn cho mình có lỗi, mình đã phụ bạc Kim Trọng. Tiếng khóc ấy làm rõ hơn vẻ đẹp và đức hi sinh cao quý của Kiều. Bi kịch tình yêu tan vỡ lên tới đỉnh điểm. Tuy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng tình yêu sâu sắc, mãnh liệt đối với kim Trọng lại khiến Kiều đau đớn xót xa chứ không hề thanh thản. Điều ấy đã thể hiện Kiều không chỉ là một người con hiếu thảo mà là một cô gái tha thiết, mãnh liệt trong tình yêu.

Đề bài: Cảm nhận về đoạn thơ Trao duyên

Bài làm

Đại thi hào Nguyễn Du (1765- 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộcViệt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩnbị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việcmà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:

“Hở môi ra những thẹn thùng

Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”

Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốndiễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽđược lâu bền lại cho Thúy Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơduyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này màđáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiêm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mìnhnơi Vân.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”

Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.”Sự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai” “Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:

“Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”

Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bóvới người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo p hong kiến khắc khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế! Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh củaKim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thât đau xót thay! Chữ• Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn• đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộcđời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phậncủa người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.”Đau đớn thay phận đàn bàHỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”kiếp số của họ:”Trăm năm trong cõi người taChữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từngkhía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du• tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Hay như Mộng Liên Đường cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Du viết Truyện Kiều như có máu rỏ lên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy”, quả thật không ngoa chút nào!