Đề bài: Cảm nhận “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.

Bài làm

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, tại Lệ Mĩ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình công chức theo đạo Thiên Chúa.

Năm 1920, Hàn Mặc Tử theo gia đình vào học tiểu học ở Sa Kì, Quy Nhơn, sau đó học ở Bồng Sơn, rồi lại trở về học ở Sa Kì.

Năm 1926, thân sinh Hàn Mặc Tử bị bệnh rồi mất ở Huế, ông theo mẹ vào Quy Nhơn, bắt đầu làm thơ Đường với bút hiệu Minh Duệ Thị.

Năm 1928, Hàn Mặc Tử ra học ở trường Pellerin ở Huế, đổi bút hiệu là Phong Trần, ghé thăm cụ Phan Bội Châư ở Bến Ngự nên bị Pháp xóa tên trong danh sách những người được đi du học ở Pháp.

Năm 1932 — 1933, ông làm việc ở sở Đạc Điền Quy Nhơn, có thơ đăng báo Tiếng Dân, Phụ Nữ Tân Văn: Tới năm 1934, theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo, lấy bút hiệu Lệ Thanh, rồi Hàn Mặc Tử.

Những bài thơ Đường luật đầu tiên của Hàn Mặc Tử mang cảnh buồn lạnh như cảnh Chùa hoang:

Hương sầu khói lạnh năm ngơ ngác

Vách chán đêm suông đứng dãi dầu.

Qua nỗi buồn nhè nhẹ trong tập Gái quê. Và rồi người đọc ngạc nhiên khi trong tập Thơ Điên lại có Đây thôn Vĩ Dạ không điên tí náo, ngược lại còn đẹp, có chủt dịu dàng…

Một lời mời, lời trách nhẹ nhàng, thân ái mở đầu bài thơ.

Nghệ thuật trách và mời trong câu thơ thật khéo léo.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Trách vì đã quen nhau và đã mời từ trước. Bây giờ mới về gặp mặt, nhắc lại là để trách yêu nhưng cũng để giới thiệu cái đẹp trong sáng, xinh tươi. Tiếp đến, người đọc thấy một bức tranh bình minh rạng rỡ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Đấy là một đất trời rạng rỡ với nắng sớm long lanh trên những tàu cau còn đẫm sương đêm vươn lên đón nắng ban mai, hòa vào một không gian mượt mà, tươi non trong vườn cây sum suê thấp thoáng bóng người. Nghệ thuật đảo ngữ và so sánh trong câu thơ thứ hai làm tăng thêm vẻ xanh trong cảnh vườn. Trong cảnh đẹp nõn nà ấy lại thấy xuất hiện:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Người ta cứ thắc mắc khuôn “mặt chữ điền” đó là của ai? Người ta cứ nghĩ rằng khuôn mặt đó “vuông” chứ chẳng phải “khuông trăng” hay “trái xoan” nên cứ đoán rằng đó là khuôn mặt của nam giới. Sao không nghĩ rằng đó là khuôn mặt của em? Vừa giới thiệu hàng cau, giới thiệu “vườn… xanh như ngọc” của “ai” đó. “Anh” vừa nhìn được cảnh đẹp ấy, còn nhìn được khuôn mặt chữ điền của “ai” đó thấp thoáng bên bụi trúc. Có đôi mắt, sống mũi, đôi môi, gò má hồng… cân đối thì khuôn mặt chữ điền phúc hậu kia sao lại chẳng là khuôn mặt của người đẹp? Cái khéo léo của nhà thơ là ở tài giới thiệu “ai” đó một cách kín đáo, duyên dáng… và phúc hậu theo quan niệm về tướng mạo của người xưa.

Lời hỏi, lời trách nhẹ; cảnh bình minh ở trên vừa thực vừa mơ. Thực là cảnh thực của Vĩ Dạ, mơ là cái mộng của nhà thơ. Có thể trước kia Hàn Mặc Tử đã về cùng thôn Vĩ, nhưng bây giờ thì là mơ, làm thơ mơ được về nơi ấy, thưởng thức cảnh đẹp của bình minh, rồi ngẩn ngơ cảnh chiều buồn giữa khu vườn bắp đang độ trổ cờ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

Cảnh hiền lành của miền quê trong chiều, và trước dòng chuyển của thời gian vô tình, mỗi sự vật đều như cố thu về trong cõi cô đơn, quạnh quẽ của riêng mình. Ở đây, mây không còn nương gió. Điệp từ trong câu thơ không để nhấn mạnh mà là để diễn tả nỗi cô đơn. Gió, mây, dòng nước, hoa bắp như có hồn, cảm nhận được cái vô tình nghiệt ngã của thời gian lướt tới. Ai đã từng về Vĩ Dạ tất nhận ra cảnh đẹp của một thôn ngoại vi của kinh thành Huế nằm bên bờ sông Hương có cánh đồng lau và những nương bắp, nơi cư trú của các quan triều Nguyễn.

Và ta cũng đừng quên đêm với Hàn Mặc Tử là trăng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ của trăng. Trăng trong những bài thơ Đường luật như:

Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa

Sương dẫm trăng lồng bóng thiết tha…

Trăng trong Bẽn lẽn như:

Trăng nằm sòng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi…

Trăng trong Mật đẳng như:

Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng

Cho trăng xuân tràn về say chới với.

Và còn cả một tập thơ xuôi Chơi giữa mùa trăng, nên Vĩ Dạ sông nước hữu tình kia, trong thơ của chàng làm sao thiếu trăng được! Và anh thơ đã hỏi giữa khoảng trời mênh mông:

Thuyền ai đậu bển sông trăng đó

Có chờ trăng về kịp tối nay?

“Thuyền ai” đậu có thể xác định được là của ai? Chở trăng về đâu vậy hở? Chở trăng về Vĩ Dạ với chàng ư? Hay ai đó chở trăng về với người thương đang đợi? Có thể như thế lắm, thơ là mơ mộng mà!

Khổ thơ cuối có lẽ là nhà thơ đã tỉnh mộng, đã quay về với thực tại nơi nhà thơ đang sống. Nhà thơ đã:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra.

Cần nhớ rằng nhà thơ làm bài thơ này lúc đã bị bệnh phong, cắt đứt mọi quan hệ giao tiếp với người thân ngoại trừ vài người thân thiết nhất, bởi vậy mà niềm mơ ước của nhà thơ tha thiết vô cùng. Giờ đây, không phải mơ được về thăm thôn Vĩ mà là mơ người thôn Vĩ đến thăm chàng. Mơ lắm ở nghệ thuật lấy lại “khách đường xa”. Người khách ấy còn trinh trắng quá không chỉ trong tâm hồn mà còn cả ở “áo em…”

Nhà thơ quay về với thực tại: buồn lắm, cô đươn lắm, tuyệt vọng đang hiện về từ chứng bệnh ngặt nghèo. Chính ở trong tâm trạng đó, nhà thơ khao khát cuộc sống, khao khát tình yêu tới tột cùng:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đất Quy Hòa cát trắng là nơi nhà thơ đang sống cùng bệnh phong, nơi tình người chỉ thoáng như “sương khói” ngày nắng tháng mưa.

Cái tha thiết ước mong đọng lại ở câu thơ cuối cùng. Chẳng hiểu em (ai) có biết cho tình yêu của ta (ai) với em vô cùng tha thiết, nồng đượm? Cái hay của câu thơ nằm ở nhân xưng dại từ phiếm chỉ “ai” ở câu thơ nghi vấn có âm hưởng của tiếng thở dài vô vọng.

Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm sâu sắc, Đây thôn Vĩ Dạ một bài thơ đẹp. Một bài thơ có những câu tả cảnh đầy tính nghệ thuật làm tăng thêm vẻ đẹp của một vùng quê xứ Huế. Đồng thời cũng thể hiện khao khát sống, khao khát được yêu của nhà thơ trong cảnh sống cô đơn, bệnh hoạn… một bài thơ tình yêu của một kiếp người truân chuyên nhưng đầy ắp tình yêu đời, yêu người.