Đề bài: Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.

Bài làm 1

Nhắc tới Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. “Đây thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mặc Tử, chứ đây ” chỉ thể hiện tình yêu đối với một người con gái xứ Huế” như bạn nào đó đã nhận xét,

Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mặc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mặc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế — Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ

Em lấy chồng rồi, hết ước mơ

Tôi sẽ đi tim mỏm đá trắng,

Ngồi lên để thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến, có trăng, cùng những hàng cau cao vút, kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

Đây thôn Vĩ Dạ gồm 12 câu thất ngôn, chia làm 3 khổ.

Khổ thứ nhất mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lèn”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp loáng như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ.

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như nhũng viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mặc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhung cảnh vật Vĩ Dạ bỗng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu, trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mặc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mặc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử có sông nước, bờ bãi, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.

Gió theo lối gió, đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia li buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đây cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gẫy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã diễn ra điều đó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”.

Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai, chậm rãi cũng dã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. “Ở đầy Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mĩ và thánh thiện. Nhưng lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ, đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu, phấp phỏng về sự muộn màng, dang dở. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.

Khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người, tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo” nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi thân thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực; xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn. “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòa cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẫn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn.

Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng?

“Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây tâm hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đầy mộng ảo dể tạo nên một ” viên ngọc thơ tuyệt vời chói lọi nghìn năm” (Chế Lan Viên).

Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là mệt bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.

Đề bài: Phân tích bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Từ.

Bài làm 2

Hàn Mặc Tử viết bài thơ này ở Quy Nhơn, nhân lức nhận được bức bưu ảnh, kèm theo mấy lời hỏi thăm sức khỏe của Hoàng Cúc gửi cho anh.

Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhà thơ Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt.

Mở đầu là câu:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”

Đây có thể là Hàn Mặc Tử nhắc lại lời thăm hỏi của Hoàng Cúc ghi trong bức bưu ảnh hoặc bức bưu ảnh gợi nhớ những kỉ niệm về thôn Vĩ.

Bốn câu thơ (khổ đầu) có tính chất tạo hình như một bức tranh có ba chiều: chiều rộng, chiều cao, lẫn chiều sầu. Đó là nỗi nhớ giúp tác giả hình dung ra trước mắt mình một cảnh tượng sống động.

Bức tranh thôn Vĩ được phác họa bằng mấy nét xinh xắn.

Ánh nắng ban mai chiếu xuống những hàng cau, “nắng mới lên” đem lại cảm giác trong lành, bình yên; những hàng cau đứng thẳng tắp, hình ảnh rất quen, nét đặc trưng của thôn Vĩ:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Những vườn cây trái sum sê, tươi tốt của thôn Vĩ (mướt quá), một màu xanh mà nhà thơ so sánh: “xanh như ngọc”. Trong hồi tưởng của nhà thơ giữa cảnh và người hòa quyện với nhau đưa đến cảm xúc trìu mền, dịu ngọt.

Thấp thoáng đàng sau những khóm trúc có bóng dáng mặt con người dịu dàng, phúc hậu khi ẩn khi hiện:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

Bốn câu tiếp theo trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ tìm đến dòng kỉ nệm về Huế gắn liền với con sông Hương thơ mộng, êm đềm. Con sông có gió, có mây, có dòng nước, có con thuyền và ánh trăng. Hầu như sóng nước sông Hương rất hiền lành, nước chầm chậm trôi giữa đôi bờ sương khói như mang một nỗi “buồn thiu”.

“Gió theo lôi gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bển sông trăng đó

Có chờ trăng về kịp tối nay?”

Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng chậm rãi uyển chuyển, cảnh ở khổ thơ trên tươi sáng, đến khổ thơ này trở nên buồn: gió và mây không đi liền nhau mà gió một lối, mây một đàng gợi lên nỗi buồn xa cách. Dòng nước trôi lững lờ, vắng vẻ “buồn thiu”, hài bên bờ sông Hương đoạn chảy qua thôn Vĩ có những vườn bắp, gió đưa hoa bắp khẽ lay dộng, một khung cảnh vắng lặng và gợi buồn. Đây là hình ảnh thấm “đượm” tâm hồn xao xuyến của nhà thơ.

Hình ảnh con “sông trăng” là một tứ thơ rất mới mẻ. Trăng trên sông Hương thật mơ mộng, “sông trăng”, thuyền “chở trăng” làm cho cảnh trở nên huyền ảo lung linh. Có thể nói chưa có nhà thơ nào tả dòng Hương Giang với nét đẹp hư ảo như Hàn Mặc Tử. Trong nỗi nhớ nhung mơ màng của nhà thơ, thuyền và trăng đã thành những vật thể có linh hồn.

Khổ ba tiếp tục những kỉ niệm về Huế:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khối mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai đậm đà?…

Trong những kỉ niệm về Huế, hình ảnh người thiếu nữ của Huế và cũng là thôn Vĩ — hiện lên đậm nét hơn cả, trở thành điểm sáng của bài thơ. Cô gái Huế của Hàn Mặc Tử có nét hư hư, thực thực, cô gái và nhà thơ có một khoảng cách về không gian, về thời gian, hơn nữ giữa hai người cũng chưa có những hứa hẹn, gắn bó cho nên chỉ là “khách đường xa”. Hình ảnh người thiếu nữ trỏ nên xa vời. Câu thơ trở nên đa nghĩa phủ lên kí ức một lớp sương mờ nên “Áo em trắng quá nhìn không ra”, nhưng trong tâm tưởng nhà thơ dù chỉ là kỉ niệm của một thời, “em” vẫn là hình bóng thân yêu.

Hình ảnh người thân xa cách chìm đi trong “sương khói” của trời đất xứ Huế, kết thúc bài thơ là một câu hỏi:

“Ai biết tình ai có đậm đà?….”

Câu thơ thứ hai chứa đầy tâm trạng. “Ai”, “ai” là anh hay là em, đúng hơn là cả hai người, nhà thơ tự hỏi mình và cũng hỏi “em” về mối tình đơn phương chưa nói lên lời. Nay giữa hai người là màn “sương khói” của không gian và thời gian làm sao biết được mối tình này có đậm đà hay nhạt phai. Có thể hiểu đây là bài thơ hướng nội, ẩn dấu cái sâu xa nhất của tâm hồn thi nhân là tình đời; ta thấy thấp thoáng bóng hình một mối tình dang dở giữa nhà thơ và người con gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình đơn phương này qua năm tháng chưa tàn phai. Bởi thế, khi chỉ có tấm bưu thiếp và mấy lời hỏi thăm từ xứ Huế gửi đến đã làm sống dậy trong lòng nhà thơ cả một trời thương nhớ. Có người cho rằng mỗi khổ thơ đều có hai giọng nói. Hai câu trên của một người, hai câu dưới của một người. Thật ra thì khó phân định. Ví dụ câu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Đây là lời trách móc hay là lời mời hỏi của “thi nhân” hay của “cố nhân” ? Nhưng có điều có thể xác định được đó chính là lời hỏi thăm kia (ở tấm bưu thiếp) đã được Hàn Mặc Tử tiếp nhận một cách đầy tình cảm ngọt ngào. Vì vậy, có thể nói đây là bức tranh tâm trạng. Một mối tình đã gieo vào lòng nhà thơ biết bao nỗi nhớ nhung khắc khoải.

Về nghệ thuật, đây là bài thơ có những nét nghệ thuật độc đáo trong diễn tả, diễn cảm và biểu hiện một tâm trạng đầy xúc động.

Có thể nói bài thơ là những bức tranh đẹp. Bức tranh vườn cây thôn Vĩ, bức tranh sông nước sông Hương hiền hòa, êm dịu, bức tranh tâm trạng có bóng dáng người con gái Huế.

Về thời gian thì khổ một là buổi sáng, khổ hai cảnh ban đêm, khổ ba thì không thể xác định.

Về không gian thì khổ một là vườn cây thôn Vĩ, khổ hai bến sông Hương, có đôi bờ, có thuyền và trăng, nhưng đến khổ thứ ba thi hầu như không có không gian hoặc khó xác định. Nhưng ở đây có thể nhận ra là nhà thơ muốn nói sát hơn về mối tình không trọn vẹn với người thôn Vĩ. Đôi tượng có thể xác định “khách đường xa” là “em”.

Đây không phải là một bức tranh tả cảnh nên nhà thơ không diễn tả theọ một trật tự nào. Vì nó là “bức tranh tâm trạng”, tả cảnh để nói tâm trạng cho nên trật tự của bài thơ là dòng xúc cảm của tác giả, cách sắp xếp đó làm tăng hiệu quả biểu hiện hồn thơ.

Trong bài thơ, tác giả dùng phương pháp láy lại một số từ để biểu cảm:

“Nắng hàng cau, nắng mới lên…

Gió theo lối gió, mây đường mây…

Mơ khách đường xa, khách đường xa…

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đây là biện pháp điệp từ, điệp ngữ ta thường gặp trong thơ. Nhưng trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử đã sử dụng biện pháp nghệ thuật này có hiệu quả thẩm mĩ cao, vì những từ ngữ đó gây ấn tượng mạnh. Nhất là điệp từ “ai” gợi nhớ bao thân thương trong những câu hò xứ Huế.

Cuộc đời Hàn Mặc Tử là một bi kịch khắc nghiệt nhưng nhà thơ đã sáng tạo cho đời những áng văn chương làm say đắm lòng người. Bài thơ có một cấu trúc độc đáo, lấy cảnh để ngụ tình, tình trang trải dịu buồn khôn khuây.

Đề bài: . Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Bài làm 3

Nét đẹp phong cảnh và tâm trạng của tác gỉả trong khổ thơ đầu

Khổ thơ đầu trong bài thơ hiện lên hai chi tiết hòa quyện vào nhau đó là nét đẹp của bức tranh phong cảnh và tâm trạng của tác giả. Bức tranh Vĩ Dạ tắm mình trong ánh bình minh toát lên một vẻ đẹp tinh khôi và dịu dàng rất Huế; trong khung cảnh thiên nhiên đó, nhà thơ hoài niệm, thương nhớ, nuối tiếc và có chút bâng khuâng. Tất cả hòa vào nhau khiến cho bức tranh thiên nhiên nhuốm màu hư ảo.

Câu thơ đầu tiên có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Có thể đó là suy nghĩ của tác giả về tình yêu mà cô gái dành cho mình, suy nghĩ đó tạo ra một lời mời thiết tha đối với tác giả (anh hãy về thăm), đồng thời là một sự trách móc, giận hờn (anh còn nhớ hay không). Cũng có thể xem đó là lời tự vấn của tác giả: Sao không về thôn Vĩ?

Dù hiểu theo cách nào thì cũng có thể thấy câu thơ chính là niềm thương nhớ, niềm yêu mến không thể kìm nén của tác giả. Sự không kìm nén đó đã bật lên thành câu hỏi. Ẩn trong câu hỏi thiết tha ấy là một bóng hình tuy ảo ảnh, mong manh mà vô cùng da diết. Ân sâu trong nuối tiếc, hoài niệm là ước muốn được về thăm Vĩ Dạ một lần. Nếu hiểu được cuộc đời của Hàn Mặc Tử thì chúng ta sẽ biết được ước muốn bình thường đó đối với Hàn Mặc Tử lớn lao biết nhường nào. Câu thơ như gợi lên một niềm thương cảm, sầu bi và oán thán cho số phận.

Thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp vừa rất thực vừa rất mộng với hàng loạt hình ảnh về nắng, hàng cau, vườn, lá trúc, mặt chữ điền. Ấn tượng sâu sắc nhất là cảnh vườn Vĩ Dạ tắm trong ánh nắng bình minh. Bằng nghệ thuật tăng cấp. Hàn Mặc Tử muốn nhấn mạnh đến hình ảnh nắng: “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Nắng mới lên là nắng ban mai, cái nắng tinh khôi, non tơ, dịu dàng sáng bóng và trong trẻo, lại được tắm mình trong cây lá ướt đẫm sương đệm nên có sự phản chiếu long lanh. Hai từ nắng đặt cạnh nhau tạo cho nắng sự chuyển động trên cây lá. Đó là một cách cảm nhận và miêu tả thật tinh tế của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh nắng hàng cau gợi cho chúng ta nhiều nghi vấn. Tại sao trong muôn vàn cây lá trong vườn, tác giả chỉ chọn hàng cau để tả ánh nắng? Phải chăng cau là loài cao nhất trong vườn nên có thể đón ánh nắng đầu tiên của ban mai dịu nhẹ; hay chính là một mối duyên không thành giờ chỉ còn có cau mà thiếu mất trầu? Có thể thấy ngoài vẻ đẹp của ánh bình minh, câu thơ còn chất chứa một nỗi sầu tình duyên của Hàn Mặc Tử.

Chính vì nắng mới lên, cây lá còn ướt đẫm sương đêm nên mới có cảnh Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Câu thơ vừa là một câu hỏi (vườn ai?), vừa là một lời bình phẩm, khen ngợi (mướt quá, xanh như ngọc). Chữ mướt toát lên một vẻ đẹp mượt mà, óng ánh. Khu vườn Vĩ Dạ hiện lên với muôn vàn màu sắc lung linh dưới ánh nắng ban mai. Hình ảnh thơ tuy đơn sơ mà lộng lẫy, bình dị mà thanh tú, dân dã mà cao sang.

Câu thơ thứ ba xuất hiện chữ ai thật đặc biệt. Chữ ai vừa không xác định vừa xác định, vừa hư lại vừa thực, vừa gần gũi lại vừa xa vời. Hàn Mặc Tử đã rất thành công khi hư ảo hóa một khung cảnh rất hiện thực và hiện thực hóa những gì vốn rất hư ảo mà vốn chỉ thấy trong tưởng tượng.

Nổi bật nhất trong câu thơ thứ tư là hình ảnh khuôn mặt chữ điền. Để hiểu được hình ảnh này thật không dễ dàng, bởi có nhiều cách lí giải khác nhau. Tuy nhiên, hình ảnh trên mang nhiều yếu tố cách điệu. Hàn Mặc Tử sử dụng yếu tố cách điệu để diễn tả sự hài hòa trong vẻ đẹp của con người và thiên nhiên. Đó là sự hài hòa của một vẻ đẹp rất Huế với cảnh vật Huế và con người Huế.

Khổ thơ ẩn chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng của Hàn Mặc Tử. Mở đầu và kết thúc bằng hai câu hỏi (Sao anh? Vườn ai?) nhưng không có câu trả lời. Đó là một dấu hỏi lớn trong lòng mà tác giả cũng chưa tìm được lời giải đáp.

Sự mơ hồ, huyền ảo trong cảnh sắc thiên nhiên và lòng người

Bài thơ bắt đầu bằng một ánh nắng ban mai dịu nhẹ nhưng thoắt đã hiện lên đêm trăng huyền ảo trong khổ thơ thứ hai. Màu sắc hư ảo dường như bao trùm trong khổ thơ thứ hai.

Hai câu mỡ đầu của khổ thơ thứ hai vẽ nên loạt hình ảnh nối tiếp nhau (gió theo lối gió, mây đường mây, dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay) như tô đậm thêm nỗi buồn của nhà thơ, một nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm của xứ Huế. Lối điệp từ gió và mây không nhằm nhấn mạnh cường độ hoặc sắc thái của gió và mây, mà chính là thể hiện sự tách biệt của gió và mây trong khung cảnh thiên nhiên.

Giá trị của câu thứ hai đặt vào hai chữ buồn thiu đặt giữa câu thơ. Đấy không chỉ là cái buồn cửa lặng lẽ của dòng nước lan tỏa đến cả hoa bắp mà còn là cái buồn của một người mang nhiều tâm sự. Chữ lay đặt trong hoàn cảnh này toát lên một vẻ hiu quạnh và tác động đến mọi cảnh vật chung quanh, khiến tất cả như mang một nỗi buồn man mác.

Hai câu thơ chứa đựng một nỗi buồn bâng khuẫng, man mác, một nỗi buồn thật khó tả và khó gọi tên. Chính nỗi buồn đó đã đưa thi nhân vào một thế giới cùa sự mộng ảo trong hai câu thơ tiếp theo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Hình ảnh sông trăng và con thuyền chở trăng trên sông thật mơ hồ nhưng cũng thật quyến rũ. Hình ảnh hư và thực đã được Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế, tài hoa. Dòng nước tắm ánh tráng sáng rực bỗng rùng mình hóa thành dòng trăng hay là ánh tráng tan ra và tuôn chảy thành dòng nước? Ắnh tràng thật lung linh, kì ảo. Hình ảnh con thuyền chở ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng để cập bên thời gian cho kịp giờ ân ái là một hình ảnh kì ảo. Những hình ảnh như thế vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử. Đó là những hình ảnh thuộc về một thế giới khác, một thế giới rất riêng của Hàn Mặc Tử.

Hai câu thơ làm thành hai câu hỏi: “Thuyền ai đó? Có chở trăng về kịp tối nay? Từ kịp gợi sự khắc khoải, mơ hồ và chờ đợi. Từ tối nay không gợi một thời gian cụ thể nào, nhưng nếu không kịp thì có lẽ không còn một tối nào khác nữa. Câu thơ gợi lên sự tuyệt vọng, đau thương và mất mát. Dường như con người hi vọng kia đang chạy đua với thời gian để giành lấy tình yêu và cuộc sống. Câu thơ làm chúng ta nhớ lại cái gấp gáp, vội vàng của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng. Nhưng Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh này lại khác. Hàn Mặc Tử không có cái sức sống mãnh liệt, tràn đầy nhiệt huyết như Xuân Diệu: Ông đang phải chạy đua với thời gian vì ông biết sự sống của mình không kéo dài. Biết đâu vào tối mai, vầng trăng kia vụt tắt, con thuyền kia mãi mãi không chở trăng về kịp. Một hình ảnh thơ rất ảo nhưng cũng rất thực. Cái thực chính là hoàn cảnh đau thương của tác giả.

Toàn bộ khung cảnh trong khổ thơ thứ hai là một thế giới ảo. Hồn thi nhân chìm vào cõi mồng lung, ở đó có hẹn hò, có chờ đợi, có phấm phỏng một niềm hi vọng và có cả dự cảm chia lìa, có thất vọng ngay trong hi vọng và có cả niềm đau thương của chính cuộc đời tác giả.

Tâm trạng của tác giả trong khổ thơ thứ ba

Giọng thơ khắc khoải trong khổ thơ thứ hai trở nên gấp gáp, khẩn thiết trong khổ thơ thứ ba. Tác giả dần đối diện với chính mình và với thực tại của một bóng giai nhân chỉ có trong ảo ảnh:

Mơ khách đường xa, khách đường xa.

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Cụm từ khách đường xa được lặp lại hai lần, kết hợp với chữ mơ ở đầu câu thơ thể hiện nỗi khắc khoải gần như tuyệt vọng. Bóng giai nhân vừa hiện lên đã chợt biến thành hư ảo bởi đó chỉ là hình bóng trong mơ. Hình ảnh giai nhân trong thơ Hàn Mặc Tử luôn biểu hiện cho sự tinh khiết, trinh trắng. Vì thế, màu áo trắng cứ như một ám ảnh kì lạ. Cụm từ nhìn không ra chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng, trắng một cách ki lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực mà đã thuộc về màu của tâm tưởng. Nhà thơ đã chìm vào tâm tưởng để nhìn thấy màu áo kí ức. Câu thơ một ảo ảnh bất ngờ nhưng có lí. Màu trắng tự nhiên choán hết cầm xúc khiến bài thơ tả cảnh thiên nhiên trở thành một bài thơ tình yêu, một thứ tình yêu đơn phương khó xác định. Đó là một khát vọng tình yêu đẹp nhòa trong kí ức.

Hai câu kết đưa người đọc đi vào cõi tâm tưởng. Ở đây là ở đâu? Là Vĩ Dạ của một thời thơ mộng đẹp mà thi nhân đang nhìn thấy sau tấm bưu ảnh? Hay trong này, nơi thi nhân ôm khát vọng yêu đượng trong nỗi cô đơn? Có lẽ chữ đây trong Đây thôn Vĩ Dạ là không gian của thê giới ngoài kia, còn chữ đây trong khổ thơ kết là thế giới trong này. Giữa hai thế giới cách nhau vừa đúng một tầm tuyệt vọng.

Cả bài thơ dồn hết tâm tư ở câu cuối: Ai biết tình ai có đậm đà? Hai chữ ai lặp lại bộc lộ tâm trạng bâng khuâng xót xa, trong đó có gì như cầu mong, có gì như tự an ủi, dẫu biết không còn hi vọng nhưng chỉ một chút ai biết cho tình ai cũng là đủ lắm rồi. Có lẽ câu cuối là lời đáp cho câu mơ đầu: Ai biết tình ai có đậm đà mà về chơi thôn Vĩ? Thật ra, có ai hỏi Hàn Mặc Tử đâu và chắc gì có người yêu thương? Tác giả đang sống trong tưởng tượng. Niềm thiết tha với cuộc đời đã biến thành những câu hỏi khắc khoải như xoáy vào tâm can người đọc. Bởi xét đến cùng, đau thương chính là biểu hiện tột cùng của khát vọng tình yêu không biến thành hiện thực. Người không yêu đời tha thiết sẽ không day dứt đến thê khi linh cảm thấy mình sắp lìa đời.

Tứ thơ và bút pháp của nhà thơ

Tứ thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có hai điểm đặc biệt:

Mở đầu bài thơ là một câu thỏi tự vấn: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? 11 câu tiếp theo, tác giả tự trả lời câu hỏi ấy bằng những hình ảnh thơ, ý thơ. Đây chính là tứ thơ bộc bạch tâm trạng của tác giả.

Toàn bài thơ là một khối thống nhất có sự liên kết về logic nội tại của tâm trạng thi nhân, nhưng giữa ba khổ thơ lại có sự chuyển ý về tứ thơ và hình ảnh thơ: từ cảnh vườn quê trong khổ thơ thứ nhất sang cảnh sông trăng và thuyền trăng trong khổ thơ thứ hai, đến cảnh áo em trắng quá nhìn không ra trong khổ thơ thứ ba.

Bút pháp của Hàn Mặc Tử trong bài thơ là bút pháp trữ tình thiên về gợi tả và giàu liên tưởng với những hình ảnh biểu hiện nộỉ tâm nhằm bộc lộ tâm trạng của chính mình.