Đề bài: Phân tích cảnh cho chữ (cảnh xưa nay chưa từng có) trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

Bài làm

Nguyên Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng khi ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là nhừng con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện; ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang hóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huân Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phị thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huân Cao có tài viêt chữ đạp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà có những sở thích cao quý như vậy. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây, về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được thiên lương. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi ở đây khó giữ được thiền lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong môt chữ viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu 6 chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản Qgục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị dộng, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thởi thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chì có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái dẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ộng trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó.Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, tạ còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ tươi tẳn nó nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.

Đề bài: Phân tích cảnh Huấn Cao cho chữ trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Nêu rõ ý nghĩa nhân văn của giá trị nghệ thuật của đoạn trích.

Bài làm 2

Một trong những đặc điểm nổi bật của bút pháp lãng mạn là tô đậm những cái kì vĩ, phi thường bằng cách tạo ra những tương phản, đối lập. Cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân chính là một cảnh tiêu biểu của nghệ thuật lãng mạn. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tổỉ, của cái đẹp, cái cao thượng đốỉ với sự phàm tục, sự nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu, nô lệ. Chính vì thế mà bản thân tác giả cũng đã xác nhận đó là: “Cảnh tượng xưa nay chưa từng cỏ”.

Muốn hiếu được giá trị của đoạn văn tả cảnh cho chữ trước hết phải thấy được bố cục của câu chuyện. Truyện tự nó đã chia làm hai phần: phần đầu chủ yếu giới thiệu về các nhân vật tham gia vào câu chuyện – có thể xem là phần dẫn chuyện. Trên cơ sở giới thiệu lai lịch, tính cách nhân vật, tác giả dẫn dắt người đọc vào phần chính của truyện: cảnh cho chữ. Đây là cảnh quy tụ các nhân vật và chủ đề tác phẩm đồng thời là kết tinh toàn bộ bút lực và tư tưởng Nguyễn Tuân.

Tác phẩm có ba nhân vật chia làm hai tuyến. Hai tuyến có mối tương quan hết sức oái ăm. Tính chất xung đột, tương phản khiến cho cuộc gặp gỡ của họ mang đầy kịch tính, hết sức éo le.

Trước hết, xét trên bình diện xã hội, họ là hai kẻ đối địch, một người được coi là kẻ phản loạn cầm đầu một cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, một người là quan chức thuộc bộ máy cai trị cửa chính cái triều đình ấy. Nhưng xét trên bình diện nghệ thuật thì họ là những kẻ tri âm. Ở một khía cạnh khác, đây còn là sự đối mặt của hai loại tà, hai kiểu tù nhân: một người tự do về nhân thân, nhưng bị cầm tù. về nhân cách. Người kia tự do về nhận cách nhưng lại cầm tù về nhân thân. Ta có thể coi đây là cuộc gặp gỡ giữa một kẻ tử tù (Huấn Cao) và một người tù chung thân (quản ngục). Cuộc gặp gỡ diễn ra trong một hoàn cảnh oái ăm: nhà tù. Chọn tình huống gặp gỡ này, Nguyễn Tuân đặt quản ngục trước sự lựa chọn: hoặc làm tròn bổn phận một cai tù hoặc trọn đạo tri kỉ. Làm tròn bổn phận quản ngục đồng nghĩa với việc giẫm đạp lên tấc lòng tri kỉ. Làm tròn đạo tri kỉ thì tất phải tư bỏ bổn phận nhà nước của một viên quan. Ngục quan lựa chọn theo hướng nào thì ý nghĩa tư tưởng, câu chuyện sẽ nghiên theo hướng ấy. Theo hướng thứ nhất, chiến thắng sẽ thuộc về cái tầm thường, còn theo hướng thứ hai, cái đẹp, cái thiền lương sẽ chiến thắng. Cho nên, xét về một mặt nào đó thì Chữ người tử tù có thể xem là câu chuyện về số phận của cái đẹp mà cảnh cho chữ chính là cảnh quyết định cho số phận đó.

Huấn Cạo cho chữ là dể đáp lại một tấm lòng. Chữ của Huấn Cao là tinh huyết và tâm huuết của Huấn Cao. Huấn Cao cho chữ quản ngục là đem lòng mình đạp lại kẻ tri âm. Đó là tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Cứ theo cách Nguyễn Tuân miêu tả nhân vật ở phần đầu và cách đặt nhân vật trong tình huống thường thấy ở chủ nghĩa lãng mạn để tô đậm các nhân vật và tư tưởng nghệ thuật thì cảnh cho chữ không thể diễn ra đơn giản. Đó cũng là điều mà cả đời viết văn của mình. Nguyễn Tuân không bao giờ chấp nhận.

Nguyễn Tuân viết về Huấn Cao với những nét bút lãng mạn, tô đậm tài hoa, khí phách và thiên lương. Đặc biệt Nguyễn Tuân nhấn manh tính khảng khái và khí khái của Huấn Cao. Viết đẹp nhưng sinh thời Huấn Cao chỉ mới viết cho ba người bạn thân. Muốn có được chữ Huấn Cao không thể lấy vàng bạc ra mua, không thể lấy vàng bạc ra mua, không thể dùng quyền uy mà ép. Muốn có được chữ Huấn Cao trước hết phải được ông kết nạp vào số những tri kỉ hiếm hoi của mình. Ngục quan bị Huấn Cao coi là kẻ tiểu nhân, lại làm nghề thất đức. Huấn Cao không che giấu thái độ “khinh bạc đến điều” đối với ngục quan. Cơ hội tiếp cận, trò chuyện đã khó nói gì đến tri kỉ. Giữa họ là cả một vực sâu ngăn cách.

Quan hệ giữa quản ngục và Huấn Cao cải thiện được hay không, lúc này hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao phát hiện ra “một tấm lòng trong thiên hạ” có “thiên lương” trong trẻo nơi ngục quan thì quan hệ hoàn toàn thay đổi. Sự khinh bỉ đã nhường chỗ cho sự trân trọng. Chính tấm lòng ngục quan đã làm cảm động tấm lòng Huân Cao. Thì ra từ trong sâu thẳm ngăn cách. Cái tâm đã làm cảm động cái tài và khi cái tài vài cái tâm có sự chuyển hóa thì cái đẹp ra đời.

Nguyễn Tuân là nhà văn thiên về chủ nghĩa “duy mỹ”. Nhưng trước sau Nguyễn Tuân vẫn tin ở “thiên lương” con người. Ông không chí hướng tới cái “mĩ” mà còn hướng tới cái “chân”, cái “thiện”. Sự ra đời của cái đẹp chính là sự hòa hợp tuyệt diệu giữa tài hoa và tâm thiện đạt đến độ chân như. Đó là tư tưởng Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân ngưỡng mộ vẻ đẹp của khí phách, vẻ đẹp của tài hoa, vẻ đẹp của thiên lương. Ông đã dồn bút lực dựng lên sức sống của những vẻ đẹp ấy nên dù Huấn Cao có ra đi mãi mãi thì tất cả vẫn vẹn nguyên, vẫn sống mãi.