Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết – mẫu 1

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết

Truyền Thống Bánh Chưng: Tinh Hoa Văn Hóa Việt Nam

Nước Việt Nam ta từ bao đời nay có nhiều truyền thống đạo lý tốt đẹp. Cha ông ta đã giữ gìn những nét đẹp ấy và rồi truyền lại cho con cháu đời sau tiếp tục nối tiếp và lưu giữ những truyền thống ấy. Trong số đó, không thể không nhắc đến bánh chưng, một loại bánh mà sự ra đời của nó là cả một câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn.

Truyền Thuyết Bánh Chưng

Theo truyền thuyết, đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng. Riêng người con trai thứ 18 của Hùng Vương là Lang Liêu (tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho) rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình trời và đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình cha mẹ sinh thành.” Lang Liêu vô cùng mừng rỡ và làm theo lời Thần dặn. Ông chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng trưng cho đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là bánh chưng. Ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng trưng cho trời, gọi là bánh dầy. Lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon và có ý nghĩa, bèn truyền ngôi vua lại cho Lang Liêu. Kể từ đó, mỗi dịp đến Tết cổ truyền, thì dân chúng đều làm bánh chưng và bánh dầy để dâng cúng tổ tiên, trời đất.

Nguyên Liệu và Cách Làm Bánh Chưng

Bánh chưng được làm từ những nguyên liệu rất đơn giản và dễ chuẩn bị, kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu gồm gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc kỹ càng để tạo nên món ăn ngon đậm đà nhất.

  • Gạo nếp: Chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp.
  • Đậu xanh: Chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân.
  • Thịt: Chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn.
  • Lá dong: Chọn lá có màu xanh đậm, gân chắc, không bị héo và rách nát. Nếu lá bị rách, có thể lót thêm lá lành để gói.

Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh. Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần có khuôn vuông để gói nhưng cũng có người chỉ cần gấp bốn góc lá dong lại là có thể gói được. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.

Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như vậy để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút, tạo nên không khí Tết ấm áp.

Ý Nghĩa và Giá Trị Văn Hóa

Trong những ngày rằm, mùng 1 hay ngày lễ Tết, giỗ chạp, trên mâm cỗ cúng của người Việt không thể nào thiếu được chiếc bánh chưng. Loại bánh này đã đi sâu vào truyền thống văn hóa của dân tộc và trở thành món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Bánh chưng là biểu tượng cho đất nơi con người sinh ra và lớn lên. Trong những ngày Tết cổ truyền, không có gia đình Việt Nam nào lại thiếu vắng những chiếc bánh chưng xanh trên bàn thờ, trên mâm cúng ông bà, tổ tiên.

Ngày nay, cuộc sống ngày càng bận rộn nên mọi nhà có thể tự làm hoặc mua bánh chưng. Nhưng dù mua hay tự làm, bánh chưng vẫn là một nét đẹp lâu đời không gì thay thế được trong văn hóa tâm linh của người Việt. Trong tâm khảm của những người Việt xa quê, bánh chưng vẫn giữ nguyên ý nghĩa và sức sống mãnh liệt của nó. Ngay tại tiểu bang California ở Mỹ, nơi có nhiều người Việt sinh sống, Ban Y tế California đã thông qua dự luật AB-2214 cho phép bán bánh chưng, công nhận bánh chưng là một loại văn hóa ẩm thực ngàn xưa của người Việt Nam.

Kết Luận

Ngày Tết, ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư vị thời gian và không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp. Đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hóa tâm linh và ẩm thực Việt Nam. Bánh chưng không chỉ là món ăn, mà còn là biểu tượng của truyền thống, của tình cảm gia đình, của lòng biết ơn và kính trọng đối với tổ tiên.

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết – mẫu 2

Bánh chưng là món ăn dân tộc mà ngày Tết gia đình nào cũng có để thờ cúng tổ tiên, sau đó là ăn trong dịp Tết. Với nhiều người dân, bánh chưng là biểu tượng của sự sum vầy, đầy đủ trong năm mới. Đây cũng là món ăn có bề dày lịch sử lâu đời trong ẩm thực nước nhà.

Theo lịch sử ghi chép lại, bánh chưng ra đời thời vua Hùng thứ 6. Sau khi đánh dẹp giặc ngoại xâm, nhà vua yêu cầu các hoàng tử và quan lại hãy dâng lên vua cha thứ quý nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên. Lang Liêu trăn trở chưa tìm được thứ gì quý giá dâng lên vua, khi nằm mơ chàng thấy vị thần đến chỉ cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những nguyên liệu có sẵn gần gũi với người nông dân. Quả thực, thứ bánh đó làm vua cha rất hài lòng. Bánh chưng, bánh dày ra đời từ đó và được lưu truyền đến ngày nay.

Dù cách xa nhiều thế hệ, cách làm bánh chưng truyền thống vẫn không có nhiều sự thay đổi. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh đã được giã nhỏ. Nếp khi mua phải chọn những hạt tròn, không bị mốc để khi nấu lên sẽ có mùi thơm. Đậu xanh phải là loại đậu có màu vàng, được sử dụng làm nhân bánh. Phần thịt cũng làm nhân nên cần phải chọn thật tỉ mỉ, thông thường sẽ mua thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Phần cuối cùng là lá dong để gói bên ngoài tạo nên sự thẩm mỹ cho chiếc bánh chưng. Lá dong phải còn tươi, có gân, màu xanh đậm. Khi mua lá dong về phải rửa bằng nước, cắt phần cuống.

Khi mua xong các nguyên liệu cần thiết, người làm sẽ bắt tay vào gói bánh chưng. Công đoạn này yêu cầu phải khéo léo, cẩn thận mới tạo nên chiếc bánh chưng đẹp. Thông thường, chỉ cần gấp bốn góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh phần nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Người làm phải chuẩn bị dây để gói, cố định phần ruột bên trong được chắc chắn để khi nấu bánh sẽ thuận lợi.

Sau quá trình gói bánh, người thực hiện chuyển sang nấu bánh. Bánh chưng được nấu với ngọn lửa từ củi khô, cho bánh vào trong một nồi lớn, đổ đầy nước và nấu liên tục trong thời gian từ 8-12 tiếng. Khi nấu đủ thời gian trên, bánh sẽ dẻo, ngon hơn.

Bánh chưng không chỉ là món ăn dân tộc mà còn mang biểu tượng may mắn, sum vầy trong năm mới. Dịp Tết có những chiếc bánh chưng trên bàn thờ tổ tiên là cách để tỏ lòng tôn kính, biết ơn với thế hệ trước. Bánh chưng còn dùng làm quà biếu cho người thân, bạn bè. Bánh chưng không chỉ là biểu tượng văn hóa mà còn là sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, giúp mọi người nhớ về cội nguồn và gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết – mẫu 3

Tết đến xuân về, mỗi gia đình Việt Nam đều tấp nập chuẩn bị Tết, và một phong tục truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết Việt Nam chính là gói bánh chưng. Tết Nguyên đán, mọi nhà từ nông thôn đến thành phố, từ gia đình khó khăn đến khá giả, trong ba ngày Tết nhất định phải có bánh chưng. Bên ngoài của chiếc bánh chưng là lá dong gói có sẵn trong tự nhiên, bên trong được chế biến từ gạo nếp, đậu xanh, hành, thịt heo,… đều là những nguyên liệu nấu ăn truyền thống của dân tộc. Còn bánh giầy với hình tròn, màu trắng nõn, mặt trên hình vòng cung giống như bầu trời, vì vậy bánh chưng, bánh giầy thường được dùng để tế trời, tế thần cầu mong thời tiết thuận lợi, cho một năm ấm no.

Có thể nói, bánh chưng trong tâm thức người Việt là truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, là món ăn đặc trưng dân tộc, là cảm giác háo hức thời thơ bé ngồi canh nồi bánh bên bếp lửa ấm cúng, hay đơn giản chỉ là bữa cơm gia đình sum họp ấm áp trong những ngày đầu năm mới. Bánh chưng, bánh giầy đã trở thành một nét văn hóa, một món ăn truyền thống và lâu đời ở Việt Nam. Nét độc đáo này đã góp phần làm đẹp hình ảnh Việt trong mắt bạn bè quốc tế. Dù ai xa quê cũng mong được về nhà bên nồi bánh mỗi dịp giao thừa đón năm mới.

Bánh chưng là món ăn không thể thiếu trên mâm cỗ ngày Tết, tượng trưng cho lòng biết ơn và niềm hy vọng về một năm mới bình an, hạnh phúc. Việc gói và nấu bánh chưng không chỉ là công việc chuẩn bị cho Tết mà còn là dịp để các thành viên trong gia đình quây quần, cùng nhau chia sẻ niềm vui và gắn kết tình cảm. Những chiếc bánh chưng xanh, vuông vắn không chỉ đẹp mắt mà còn chứa đựng tình yêu thương và sự đoàn kết của cả gia đình.

Ngày nay, dù cuộc sống hiện đại và bận rộn hơn, nhưng phong tục gói bánh chưng vẫn được nhiều gia đình duy trì. Một số người có thể mua bánh chưng làm sẵn, nhưng hương vị và ý nghĩa của việc tự tay gói bánh chưng vẫn không thể thay thế. Trong tâm thức của người Việt, bánh chưng không chỉ là món ăn truyền thống mà còn là biểu tượng của sự đoàn tụ, niềm vui và hy vọng.

Bánh chưng, bánh giầy không chỉ là món ăn mà còn là nét văn hóa đặc trưng của người Việt, mang theo những giá trị truyền thống quý báu và tinh thần dân tộc. Chính những nét đẹp ấy đã và đang góp phần xây dựng và lan tỏa hình ảnh Việt Nam đẹp đẽ, thân thiện và giàu bản sắc văn hóa trên bản đồ thế giới.

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết – mẫu 4

Tục gói chưng ngày Tết đã trở thành nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ người Việt, thể hiện nét đẹp của nền văn minh lúa nước. Mỗi khi Tết đến Xuân về, người người, nhà nhà lại gói bánh chưng ăn Tết, dâng bánh lên bàn thờ tổ tiên.

Truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày” xuất hiện từ đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua nhất sẽ được nhà vua nhường ngôi. Các vị quan Lang lên rừng, xuống biển tìm châu ngọc và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua. Riêng Lang Liêu là người con nghèo khó nhất trong số các vị quan Lang, chàng không tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha, mà đã dùng ngay những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh tượng trưng cho trời tròn và đất vuông (còn được gọi là bánh chưng và bánh dày) để làm lễ vật dâng vua cha. Lễ vật của Lang Liêu hợp với ý vua Hùng nhất và nhà vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu… Từ đó bánh Chưng, bánh dày đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với tiên tổ, cha, ông.

Trong xã hội hiện đại nhiều phong tục truyền thống dần bị mai một, nhưng một tập quán xa xưa vẫn được người Việt lưu giữ tới nay và mãi về sau đó là tục gói bánh chưng dâng cúng tổ tiên ngày Tết. Một nét đẹp truyền thống không thể thiếu mỗi dịp Tết đến xuân về, khi mọi người cùng nhau bên bếp lửa hồng của nồi bánh chưng nghi ngút khói tỏa thể hiện sự sum vầy, ấm áp và đoàn tụ.

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết – mẫu 5

Đến dịp Tết và xuân về, mọi người trên khắp đường phố đều tấp nập đi mua sắm để chuẩn bị cho các ngày lễ. Đào, quất, bánh kẹo và đặc biệt là bánh chưng – món ăn truyền thống của dân tộc – là những thứ không thể thiếu trong ngày Tết của mỗi gia đình. Từ xa xưa, trong câu chuyện về các vua Hùng, bánh chưng được coi là thứ tượng trưng cho đất, thể hiện sự biết ơn của con người gửi tới tổ tiên, các vị thần với ước mong mùa màng bội thu. Nguyên liệu để làm bánh chưng cũng khá đơn giản: gạo nếp, đỗ xanh, thịt mỡ, lá dong và lạt để buộc. Khi làm bánh, chúng ta cần chuẩn bị nguyên liệu một cách cẩn thận và kỹ lưỡng. Ta đặt lạt xuống trước, sau đó xếp lá dong lên, tùy người gói mà chúng ta dùng 2,3 lá hoặc nhiều hơn, có người dùng khuôn để bánh vuông hơn và các nguyên liệu hòa quyện với nhau hơn, nhưng có người thì chỉ cần dùng tay để gói bánh cũng vẫn đẹp mắt và ngon. Khi trải lá dong ra, chúng ta lần lượt cho các nguyên liệu vào, dưới cùng là lớp gạo sau đó là lớp đỗ xanh, thịt lợn và trên cùng lại là một lớp gạo. Lượng nguyên liệu gói bánh cũng phụ thuộc vào từng người gói. Tuy nhiên, lượng gạo phải đủ để phủ kín nhân bên trong. Sau khi cho đầy đủ các nguyên liệu, chúng ta dùng lạt buộc lại chắc chắn. Như vậy là chúng ta đã tự tay gói được một chiếc bánh chưng hoàn chỉnh. Bánh chưng là biểu tượng của ngày Tết cổ truyền, chúng ta dùng bánh chưng để thắp hương cho tổ tiên như một truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Khoảnh khắc cả gia đình ngồi quây quần bên nồi bánh chưng thật đầm ấm và quây quần. Dù cuộc sống hiện đại không thiếu những món ngon, mới lạ nhưng món ăn truyền thống vẫn là những thứ không thể thiếu và mang đậm bản sắc dân tộc.

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết – mẫu 6

Bánh chưng là một sản vật xuất hiện từ rất xa xưa, từ thời đại Vua Hùng cho đến nay. Có thể nói, bánh chưng là một trong những sản vật mang đậm tính truyền thống, vừa có sức trường tồn cùng với thời gian, theo những tháng năm lịch sử của dân tộc vừa rất gần gũi với đời sống thường nhật trong lĩnh vực văn hóa ẩm thực và tâm linh của người Việt Nam. Tuy nhiên, trong xã hội ngày càng hiện đại, đã có nhiều truyền thống đang bị mai một, bên cạnh đó cũng còn một số giá trị truyền thống vẫn được người Việt lưu giữ cho đến tận bây giờ đó là phong tục gói bánh chưng vào nhưng dịp Tết đến xuân về. Theo truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dầy”, vào đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng, nhà vua muốn truyền ngôi cho con nên đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: “vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua sẽ được nhà vua nhường ngôi”. Các vị quan Lang cùng đua nhau lên rừng, xuống biển tìm kiếm những món ngon vật lạ và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua với hy vọng được nối ngôi của vua cha. Trong đó có người con trai thứ mưới tám của vua Hùng tên là Lang Liêu, là người nghèo khó nhất trong số các người con của vua. Với tính tình hiền lành, chí hiếu, mẹ lại mất sớm, nên không thể tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha. Chàng lo lắng không biết phải làm sao thì bỗng nằm mơ thấy ông Tiên bảo: “Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”. Lang Liêu tỉnh dậy mừng rỡ và làm theo lời Tiên ông đã dặn, chàng đã dùng những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh chưng và bánh dầy tượng trưng cho trời và đất làm lễ vật dâng vua. Đến ngày hẹn, các vị quan Lang đều đem lễ vật tới nào là sơn hào hải vị,… Riêng lễ vật của Lang Liêu chỉ có bánh chưng bánh dầy. Vua cha lấy làm lạ nên hỏi, Lang Liêu bèn đem “Thần mộng” tâu lên. Vua nếm bánh thấy ngon, lại khen có ý nghĩa, rất hợp ý vua Hùng, và vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu, tức là đời vua Hùng Vương thứ 7. Từ đó bánh chưng, bánh dầy đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với cha ông. Bánh Chưng có hình vuông, màu xanh tượng trưng cho Đất, đây cũng là món ăn, là nét đẹp truyền thống không thể thiếu vào mỗi dịp tết đến xuân về, mọi người cùng nhau quây quần bên nồi bánh chưng nghi ngút khói.