Tác giả – tác phẩm: Quang Trung đại phá quân Thanh – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

Tác giả – tác phẩm: Quang Trung đại phá quân Thanh – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

Tác giả - tác phẩm: Quang Trung đại phá quân Thanh - Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

I. Tác giả văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh

Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả Việt Nam có nguồn gốc từ làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ngô Chi Thất và Ngô Trân là hai nhân vật chủ chốt đề xướng và xây dựng nên Văn phái, sau này được biết đến với biệt danh là Ngô gia văn phái.

Ngô gia văn phái là một dòng họ lớn có truyền thống nghiên cứu và sáng tác văn chương, với sự đóng góp của 20 tác giả từ 9 thế hệ khác nhau. Hai tác giả nổi bật nhất trong dòng họ này là Ngô Thì Chí (1753 – 1788), người đã làm quan trong thời kỳ của vua Lê Chiêu Thống, và Ngô Thì Du (1772-1840), người đã phục vụ dưới triều nhà Nguyễn.

II. Tìm hiểu tác phẩm Quang Trung đại phá quân Thanh

1. Thể loại

Quang Trung đại phá quân Thanh thuộc thể loại tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

“Hoàng Lê Nhất Thống Chí” là một tiểu thuyết lịch sử được viết bằng chữ Hán theo kiểu lối chương hồi, với tổng cộng 17 hồi.

“Quang Trung Đại Phá Quân Thanh” là một tác phẩm được sáng tác trong một khoảng thời gian kéo dài từ cuối triều Lê sang đầu triều Nguyễn, khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Tác phẩm này ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn tiêu diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê, đồng thời tôn vinh cuộc khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của nhà lãnh đạo anh hùng Nguyễn Huệ.

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh có phương thức biểu đạt là tự sự

4. Người kể chuyện

Văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh được kể theo ngôi thứ ba

5. Tóm tắt văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh

Lê Chiêu Thống, lo sợ uy danh của quân Tây Sơn, đã quyết định sang cầu cứu nhà Thanh. Quân Thanh, do Tôn Sĩ Nghị lãnh đạo, tiến vào Thăng Long. Ngô Văn Sở, một tướng của Tây Sơn, rút quân về núi Tam Điệp để bảo toàn lực lượng và thông báo cho Nguyễn Huệ. Thuận theo ý kiến của tướng sĩ, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế với hiệu là Quang Trung, sau đó dẫn quân ra Nghệ An. Tại đó, ông tập hợp thêm quân và mở cuộc duyệt binh lớn, tạo động viên và sự đồng lòng cho quân sĩ. Sau đó, quân tiến ra Bắc. Khi đến núi Tam Điệp, Nguyễn Huệ đã họp với hai tướng Lân, Sở, và Ngô Thời Nhiệm để lên kế hoạch sau khi đánh thắng quân Thanh, sau đó mở tiệc khao quân. Họ hẹn ngày 30 lên đường, và vào ngày 7 Tết tiến vào Thăng Long.

Quân Tây Sơn đã tiến công, bắt đầu từ đồn Hạ Hồi vào nửa đêm mùng 3 Kỷ Dậu, khiến quân Thanh sợ hãi và xin hàng. Tiếp theo, họ tấn công đồn Ngọc Hồi, khiến quân Thanh bỏ chạy tán loạn và bị dồn xuống đầm vực, bị giày đạp chết hàng vạn người. Giữa trưa cùng ngày, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nghe tin sợ hãi và chạy trốn, còn vua Lê Chiêu Thống đem hoàng thân quốc thích rời kinh thành theo quân Thanh đánh bại.

6. Bố cục văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh

– Phần 1: (từ đầu đến “…hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng cháp năm Mậu Thân 1788”): được tin báo quân Thanh chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc.

– Phần 2: (tiếp theo đến “… vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành”): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.

– Phần 3: (còn lại): Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm bại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

7. Giá trị nội dung

Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.

8. Giá trị nghệ thuật

Tác phẩm nổi bật là một tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán với cách kể chuyện nhanh gọn, chọn lọc sự kiện, khắc họa nhân vật chủ yếu qua hành động, lời nói, kể chuyện xen miêu tả sinh động và cụ thể, gây ấn tượng mạnh.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Quang Trung đại phá quân Thanh

1. Hình tượng vua Quang Trung

* Vua Quang Trung là một con người hành động mạnh mẽ quyết đoán

– Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết.

– Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”.

– Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, dốc xuất đại binh ra Bắc…

Tác giả - tác phẩm: Quang Trung đại phá quân Thanh - Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

* Vua Quang Trung là một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén:

– Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế để chính danh vị, lấy niên hiệu là Quang Trung.

+ Việc lên ngôi đã được tính kỹ với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được dân ủng hộ.

Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta:

+ Qua lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ “đất nào sao ấy” người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân ta: “Từ đời nhà hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”.

+ Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập của cha ông ta từ ngàn xưa như: Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành…

+ Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người Phù Lê “thay lòng đổi dạ” với mình nên ông đã có lời dụ với quân lính chí tình, vừa nghiêm khắc: “các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

– Sáng suốt trong việc xét đoán bê bối:

+ Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rõ: Ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng” nhưng không hiểu lòng họ, sức mình ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen.

+ Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sĩ “đa mưu túc trí” việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.

* Vua Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng:

– Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”.

– Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 tới ta hoà bình. Đối với địch, thường thì biết là thắng việc binh đao không thể dứt ngay được vì xỉ nhục của nước lớn còn đó. Nếu “chờ 10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”.

* Vua Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người:

– Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức 2 ngày.

– Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề cũng là do tài tổ chức của người cầm quân.

* Hình ảnh vị vua lẫm liệt trong chiến trận

– Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông làm tổng chỉ huy chiến dịch thực sự.

– Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù.

– Khí thế đội quân làm cho kẻ thù khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc hoạ lẫm liệt: trong cảnh “khói tỏ mù trời, cách gang tấc không thấy gì” nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.

– Hình ảnh người anh hùng được khắc hoạ khá đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần; là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.

2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh

– Hình ảnh Tôn Sĩ Nghị kiêu căng, tự mãn, chủ quan, kéo quân vào Thăng Long mà không đề phòng gì ⇒ Tướng bất tài

– Khi quân Tây Sơn đánh vào, “tướng sợ mất mật”, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp…chuồn trước qua cầu phao”

– Quân sĩ xâm lược lúc lâm trận thì sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết….

⇒ Kể xen lẫn tả thực cụ thể, sống động, ngòi bút miêu tả khách quan

Tác giả - tác phẩm: Quang Trung đại phá quân Thanh - Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

3. Số phận thảm bại của vua Lê Chiêu Thống

* Quân tướng nhà Thanh:

+ Tôn Sĩ Nghị bất tài, không nắm được tình hình thực tế, kiêu căng tự mãn, trễ nải quân cơ: chỉ chăm chú vào yến tiệc, vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc; khi quân Tây Sơn đánh đến thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao”…

+ Quân tướng hèn nhát, thảm bại: khi nghe tiếng quân Tây Sơn, quân Thanh ở trong đồn Hạ Hồi “ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng”; ở đồn Ngọc Hồi quân thì “bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, tướng thì tự thắt cổ chết; thấy nghi binh thì “đều hết hồn hết vía, vội trốn”; khi nghe tin Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy “đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa.”…

* Vua tôi Lê Chiêu Thống:

+ Vì lợi ích của dòng họ, vị thế nhà Lê mà trở thành những kẻ phản động, cõng rắn cắn gà nhà, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc;

+ Đớn hèn, nhục nhã trước quân Thanh;

+ Tháo chạy thục mạng, cướp cả thuyền của dân mà qua sông, khi đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị thì “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”, rồi chấp nhận phận vong quốc, sau này phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh.

=> Lối văn trần thuật đặc sắc. Không ghi chép sự kiện một cách gấp gáp qua từng mốc thời gian mà miêu tả cụ thể hành động, lời nói. Miêu tả được thế đối lập giữa hai đội quân và trung thành với lịch sử dân tộc.