Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) – Kết nối tri thức

Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) – Kết nối tri thức

Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - Kết nối tri thức

Phân tích tác phẩm thơ trào phúng

Việc phân tích một bài thơ trào phúng yêu cầu việc khám phá cả nội dung và hình thức nghệ thuật, nhằm làm nổi bật những nét đặc sắc của tác phẩm.

Yêu cầu của bài viết phân tích:

  • Giới thiệu tác giả và bài thơ, đồng thời nêu ý kiến chung về bài thơ.
  • Phân tích nội dung trào phúng để làm rõ chủ đề.
  • Chỉ ra và phân tích các nét đặc sắc nghệ thuật trào phúng.
  • Khẳng định giá trị và ý nghĩa của bài thơ.

Bài viết tham khảo:

  1. Giới thiệu tác giả và bài thơ:

    • Hồ Xuân Hương, nổi tiếng với tinh thần phóng khoáng, là tác giả của bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống”, một tác phẩm phản ánh sự bức xúc trước hành động tôn vinh một tướng lạc hậu, thể hiện qua lối mỉa mai sâu cay.
  2. Phân tích nhan đề và đề tài:

    • Nhan đề “Đề đền Sầm Nghi Đống” đã mang ý nghĩa giễu cợt ngay từ đầu, làm dẫn nhập cho tinh thần châm biếm xuyên suốt bài thơ.
  3. Phân tích nội dung trào phúng:

    • Câu đầu tiên đã thể hiện thái độ chế nhạo, qua đó dẫn dắt đến những lời đánh giá mỉa mai về đối tượng bị phê phán.
    • Các câu tiếp theo mở rộng việc phê phán, từ việc quan sát bên ngoài chuyển sang cảm nhận chủ quan, càng làm tăng tính châm biếm.
  4. Chỉ ra và phân tích tác dụng của nghệ thuật trào phúng:

    • Việc sử dụng ngôn từ như “ghé mắt”, “trông ngang”, và “đổi phận làm trai” không chỉ làm nổi bật tầm nhìn châm biếm mà còn phản ánh sự thông minh, sắc sảo của Hồ Xuân Hương trong việc sử dụng từ ngữ.
  5. Khẳng định giá trị và ý nghĩa của bài thơ:

    • “Đề đền Sầm Nghi Đống” không chỉ là một bài thơ trào phúng mà còn là một tuyên ngôn chính trị, phản đối việc tôn vinh những nhân vật không xứng đáng, từ đó khẳng định lòng yêu nước và tinh thần phản kháng mạnh mẽ.

Hướng dẫn thực hành viết:

  1. Chuẩn bị trước khi viết:

    • Chọn một bài thơ trào phúng có nội dung mạnh mẽ mà em cảm nhận được sâu sắc, chẳng hạn như các bài thơ của Nguyễn Khuyến hoặc Trần Tế Xương.
    • Nghiên cứu kỹ lưỡng bố cục, nội dung, và các phương tiện nghệ thuật mà nhà thơ sử dụng để tạo nên tiếng cười trào phúng.
  2. Lập dàn ý:

    • Mở bài: Giới thiệu tác giả và bài thơ, cùng với hoàn cảnh ra đời của tác phẩm nếu có.
    • Thân bài: Phân tích theo bố cục hoặc theo hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
    • Kết bài: Tổng kết ý nghĩa của tiếng cười trào phúng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
  3. Viết bài:

    • Thể hiện rõ ràng các ý đã được lập trong dàn ý, đảm bảo tính mạch lạc và hệ thống trong bài viết.
    • Đưa ra các ví dụ cụ thể từ bài thơ để chứng minh các điểm phân tích, đồng thời phản ánh sâu sắc tầm nhìn và cảm nhận của em về bài thơ

Bài viết tham khảo

Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ do Hồ Chí Minh viết ròng rã hơn một năm trời trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trước hết, đây là tập thơ Bác viết cho chính mình, với mục đích: Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do mà Bác đã viết ở bài Khai quyển đầu cuốn sổ tay. Vì thế mà Bác ghi lại vắn tắt những điều tai nghe mắt thấy làm cho mình trăn trở, suy nghĩ và xúc cảm trong suốt mười bốn tháng bị giam cầm. Lai Tân là bài thơ thứ 97, Bác làm sau khi bị chuyển lao từ Thiên Giang đến Lai Tân. Đằng sau bức tranh tả thực có vẻ như rất khách quan là thái độ mỉa mai, châm biếm và phê phán của người tù Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị ở Lai Tân nói riêng và chế độ xã hội Trung Quốc đương thời nói chung.

Phiên âm chữ Hán:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bức tranh về hiện thực ở nhà tù Lai Tân và một phần xã hội Trung Quốc thu nhỏ đã được Hồ Chí Minh phản ánh sinh động trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà ý nghĩa vô cùng hàm súc. Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo kết hợp với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình và một kết cấu chặt chẽ, hợp lý.

Kết cấu bài thơ gồm hai phần nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật ở chỗ: phần thứ nhất gồm ba câu, còn phần thứ hai chỉ có một câu. Ba câu thơ đầu chỉ đơn thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thứ tư bởi nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài thơ và làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai của người tù Hồ Chí Minh trước sự thối nát đến tận xương tủy của đám quan chức trong giai cấp thống trị.

Ở phần thứ nhất, Hồ Chí Minh đã phác họa thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng”. Ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc ngày này qua ngày khác, trong khi: Đánh bạc bên ngoài quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn… hút thuốc phiện. Chính những kẻ đại diện cho chính quyền, cho luật pháp lại ngang nhiên vi phạm pháp luật. Điều trái ngược ấy đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy: Quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, hưởng lạc; cấp dưới thì chỉ lo xoay xở kiếm ăn quanh, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành. Hơn thế, điều đáng mỉa mai là chính bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ấy đã “tích cực” góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội. Ba nhân vật đang hoạt động như trong một màn hài kịch câm và cả ba đang thủ vai một cách hết sức “nghiêm túc” giữa khung cảnh thái bình (?!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ miêu tả ngắn gọn mà lại hàm ý mỉa mai sâu sắc, tố cáo tình trạng lộn xộn, bát nháo của xã hội Trung Quốc lúc đó.

Phần thứ hai (câu cuối cùng) là nhận xét có tính chất trào lộng thâm thúy của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng của bộ máy cai trị ở Lai Tân. Người đọc chờ đợi gì ở câu kết luận này ? Chắc hẳn phải là một sự lên án quyết liệt. Nhưng tác giả đã không làm như thế mà lại hạ một câu có vẻ rất khách quan: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Đòn đả kích bất ngờ mà sâu cay lại nằm ngay trong câu nhận xét tưởng như là ca ngợi ấy.

Hiệu quả đả kích của câu thơ như thế nào? Hoá ra tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân không phải là chuyện bất thường mà là chuyện bình thường. Bình thường đến nỗi đã trở thành bản chất, thậm chí đã thành “nề nếp” được chấp nhận từ lâu.

Câu kết tưởng chừng có vẻ hết sức “vô tư” kia ai ngờ lại ẩn giấu một tiếng cười mỉa mai, châm biếm, lật tẩy bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Tính từ thái bình có thể xem là “thần tự”, “nhãn tự” của bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã có một lời bình thật chính xác và thú vị: “Một chữ thái bình mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của giai cấp bóc lột thống trị Trung Quốc. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong”.

Bài thơ Lai Tân in đậm bút pháp nghệ thuật chấm phá truyền thống của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, súc tích, không cầu kì câu chữ, nhưng chỉ với bốn câu thơ ngắn, người tù Hồ Chí Minh đã phơi bày bản chất của cả chế độ Tưởng Giới Thạch suy thoái, mục nát. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà thâm thúy chính là ở đó.

Chỉnh sửa bài viết

Đọc lại bài viết, căn cứ vào yêu cầu phân tích một bài thơ trào phúng và dàn ý đã lập, rà soát các phần, các ý để chỉnh sửa. Việc chỉnh sửa có thể thực hiện theo một số gợi ý sau:

– Kiểm tra xem các ý đã được triển khai theo logic nhất quán chưa, nếu chưa thì phải điều chỉnh lại các ý cho phù hợp.

– Rà soát xem bài viết đã chú ý phân tích một số nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trào phúng của bài thơ chưa. Nếu thiếu thì phải bổ sung.

– Đối chiếu quy mô và dung lượng thông tin giữa các ý. Ý nào cần trình bày quá dài hoặc quá nhiều thông tin thì cần rút gọn lại. Ngược lại, ý nào quá ngắn hoặc còn sơ sài thì cần bổ sung cho cân đối.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 8 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác: