- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 9- Kết nối tri thức
- Soạn bài Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Kết nối tri thức- Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 16
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 24 Tập 1- Kết nối tri thức
- Soạn bài Quang Trung đại phá quân Thanh (trang 17)- Kết nối tri thức
- Soạn bài Ta đi tới – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn kể lại một chuyến đi (tham quan một di tích lịch sử, văn hóa)- Kết nối tri thức
- Soạn bài Minh sư – Kết nối tri thức
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 34 Tập 1- Kết nối tri thức
- Soạn bài (Nói và nghe trang 33) Trình bày bài giới thiệu ngắn về một cuốn sách- Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 39 Tập 1- Kết nối tri thức
- Soạn bài Thu điếu – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 42 Tập 1- Kết nối tri thức
- Soạn bài Thiên Trường vãn vọng – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 45- Kết nối tri thức
- Soạn bài Ca Huế trên sông Hương – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật) – Kết nối tri thức
- Phân tích bài thơ bánh trôi nước Hồ Xuân Hương
- Top 10 bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt đường luật)
- Dàn ý Bài văn phân tích một tác phẩm văn học
- Phân tích tác phẩm câu cá mùa thu Nguyễn Khuyến
- Phân tích tác phẩm qua đèo ngang Bà Huyện Thanh Quan
- Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
- Phân tích tác phẩm Nam Quốc Sơn Hà
- Phân tích tác phẩm qua đèo ngang
- Phân tích bài thơ Cảnh Khuya Hồ Chí Minh
- Phân tích tác phẩm bạn đến chơi nhà Nguyễn Khuyến
- Phân tích tác phẩm Tụng giá hoàn kinh sư
- Soạn bài (Nói và nghe trang 53) Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội
- Ý kiến về một vấn đề xã hội: Những giá trị văn hóa truyền thống
- Dàn ý trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Bản sắc văn hóa dân tộc
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: các sản phẩm thủ công truyền thống
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: sử dụng các sản phẩm thủ công truyền thống
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Áo dài trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 55
- Soạn bài Qua Đèo Ngang (trang 56)
- Soạn bài Hịch tướng sĩ (trang 59) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 58 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 39 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 64 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (con người trong mối quan hệ với cộng đồng, đất nước) – Kết nối tri thức
- Vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ ngay nay với tương lai đất nước
- Dàn ý Bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống
- Trách nhiệm và vai trò của bản thân trong việc xây dựng, phát triển đất nước
- Bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống Ý thức cộng đồng
- Nghị luận về một vấn đề đời sống Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
- Học thêm toán ở Phường Hợp Thành Thành Phố Hòa Bình
- Soạn bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – ngắn nhất Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 68 Tập 1 – ngắn nhất Kết nối tri thức
- Soạn bài Nam quốc sơn hà – ngắn nhất Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (con người trong mối quan hệ với cộng đồng, đất nước)
- Soạn bài (Nói và nghe trang 75) Thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi (ý thức trách nhiệm với cộng đồng của học sinh) – ngắn nhất Kết nối tri thức
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 77 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Đọc mở rộng lớp 8 trang 79 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 81 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 84 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Chiếu dời đô (trang 78) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Lai Tân – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 86 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 97 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Vịnh cây vông – Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 100 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Trưởng giả học làm sang – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 107 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Chùm truyện cười dân gian Việt Nam – Kết nối tri thức
- Soạn bài Chùm ca dao trào phúng – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 113 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại) – Kết nối tri thức
- Soạn bài (Nói và nghe trang 118) Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 120 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Đọc mở rộng lớp 8 trang 123 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Ôn tập kiến thức (Ôn tập học kì 1) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Phiếu học tập số 1 (Ôn tập học kì 1) – Kết nối tri thức
- Tóm tắt Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Top 15 tóm tắt Lá cờ thêu sáu chữ vàng (hay, ngắn nhất) – Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Quang Trung đại phá quân Thanh – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức (
- Tóm tắt Quang Trung đại phá quân Thanh – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Quang Trung đại phá quân Thanh – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Ta đi tới (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Ta đi tới – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn kể lại một chuyến đi (tham quan một di tích lịch sử, văn hóa) trang 28
- Top 30 Viết bài văn kể lại một chuyến đi (tham quan một di tích lịch sử, văn hóa)
- Top 20 Viết bài văn kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Đền Hùng
- Top 20 Viết bài văn kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Cố đô Huế
- Top 5 Viết bài văn kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư
- Top 10 Viết bài văn kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Thành Cổ Loa
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về một cuốn sách (cuốn truyện lịch sử)
- Top 5 Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách Tiêu Sơn tráng sĩ
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách Đêm hội Long Trì
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách An Tư
- Tóm tắt Minh sư – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Minh sư (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Minh sư – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Thu điếu (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Thu điếu – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Thiên trường vãn vọng (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Thiên trường vãn vọng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Ca Huế trên sông Hương – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Ca Huế trên sông Hương (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Ca Huế trên sông Hương – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt đường luật)
- Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt đường luật)
- Phân tích bài thơ Thu ẩm
- Phân tích bài thơ Thu vịnh
- Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà
- Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà
- Phân tích bài thơ Vịnh Khoa Thi Hương
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Múa rối nước
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Áo dài Việt Nam
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phở Việt Nam
- Soạn bài Qua đèo ngang (trang 9) – Chân trời sáng tạo
- Tóm tắt Hịch tướng sĩ – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Hịch tướng sĩ (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Hịch tướng sĩ – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Nam quốc sơn hà – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Nam quốc sơn hà (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (con người trong mối quan hệ với cộng đồng, đất nước)
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại) – Kết nối tri thức
- Thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi
- Thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi (tổ chức hợp lí nề nếp sinh hoạt của bản thân) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Chiếu dời đô – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
- Bố cục văn bản Lai Tân (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Lai Tân – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Top 30 Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội (ý nghĩa của tiếng cười trong đời sống)
- Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)
- Bố cục văn bản Vịnh cây vông (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Vịnh cây vông – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Trưởng giả học làm sang – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Trưởng giả học làm sang (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Trưởng giả học làm sang – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Chùm truyện cười dân gian Việt Nam – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Chùm truyện cười dân gian Việt Nam (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Chùm truyện cười dân gian Việt Nam – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Chùm ca dao trào phúng (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Chùm ca dao trào phúng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại)
- Nghị luận về thói khoe khoang (hay nhất)
- Nghị luận về thói khoác lác (hay nhất)
- Nghị luận về thói nói dóc nói dối (hay nhất)
- Nghị luận về thói quen Trì hoãn công việc (hay nhất)
- Nghị luận về sự tùy tiện khi tham gia giao thông của một số người dân
- Nghị luận về thói kiêu ngạo, thích chơi trội của một bộ phân thanh thiếu niên
- Nghị luận về thói lười nhác hay than vãn (hay nhất)
- Nghị luận về sự ba phải, thiếu chủ kiến khi làm việc nhóm
- Nghị luận về thói ích kỉ (hay nhất)
- Nghị luận về lối sống ảo mà một số người đang theo đuổi
- Trình bày ý kiến về sự thiếu chủ kiến
- Trình bày ý kiến về thói đạo đức giả
- Tóm tắt Giá không có ruồi – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Giá không có ruồi (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Giá không có ruồi – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
Phân tích bài thơ Thu ẩm
Phân tích bài thơ Thu ẩm
Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 1
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tài năng, cốt cách thanh cao, yêu nước thương dân. Ông từng từ bỏ chốn quan trường vì chán ghét chính quyền thực dân Pháp và bộ máy phong kiến thối nát. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến đồ sộ, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, nổi tiếng nhất là chùm thơ thu bằng chữ Nôm, và “Thu ẩm” là một trong ba bài thơ nổi bật.
Nhan đề “Thu ẩm” có nghĩa là mùa thu và uống rượu. Từ “ẩm” ở đây không mang nghĩa uống nhanh, nhiều mà là nhâm nhi, thưởng thức đầy văn nhã của một thi sĩ trong khung cảnh mùa thu trữ tình. Hai câu đầu mở ra một cảnh tượng bình dị, thân thuộc:
“Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”
Cảnh mùa thu hiện lên trong đôi mắt của vị thi nhân ngà ngà men rượu là khung cảnh tối tăm, yên ắng, đặc trưng của làng quê. “Năm gian nhà cỏ thấp le te” gợi lên hình ảnh những ngôi nhà đơn sơ, thấp bé, phản ánh cuộc sống giản dị. Không gian tối tăm của những con “ngõ tối” cùng ánh sáng “lập lòe” của đom đóm thêm phần yên tĩnh và hoang sơ. Đó là màn sương đêm giăng “phất phơ” như “khói nhạt” bên lưng giậu, là ánh trăng nhàn nhạt “lóng lánh” trên mặt ao trước sân nhà, và đặc biệt là bầu trời mùa thu “xanh ngắt” nền nã, trong trẻo. Tất cả gợi nên một khung cảnh đầy thơ mộng và yên bình.
Bài thơ có nét đặc biệt ở chỗ, trong sáu câu đầu tả cảnh và tả người, tác giả sử dụng những nét bút cao thấp, gần xa, đậm nhạt để tạo nên một bức tranh phong phú. Cái thấp trong “Năm gian nhà cỏ thấp le te”, độ sâu của “đêm sâu”, sự nhẹ nhàng của sương khói bên giậu cúc tần và màu xanh ngắt của trời cao. Rồi đến ánh trăng “lóng lánh” trên mặt ao, phản chiếu nhàn nhạt như dát vàng. Khi tác giả nói “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”, ta cảm nhận được đôi mắt mơ màng trong men rượu, say trong cảnh thu thanh tĩnh.
Hai câu cuối:
“Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy Độ năm ba chén đã say nhè”
Nhà thơ nhận xét về rượu một cách vu vơ, nghe người đời ca tụng rượu là thú vui tao nhã nhưng với ông, “hay chả mấy”, không như lời đồn. Thi nhân cũng không phải người biết uống rượu, “Độ năm ba chén đã say nhè”. Liệu có phải thi nhân hiếm khi uống rượu? Và cớ sự gì khiến nhà thơ tìm đến rượu? Thông thường, uống rượu, làm thơ là thú vui tao nhã của những kẻ ẩn dật, văn nhân, thi sĩ. Ở đây, nhà thơ say nhưng vẫn giữ cốt cách văn nhã, quân tử, chỉ nhẹ nhàng “say nhè”, say nhưng không ồn ào, náo động, mà yên tĩnh, ngắm trăng trời rồi thiu thiu vào giấc ngủ.
Khung cảnh uống rượu của Nguyễn Khuyến gợi lên sự cô đơn, trống vắng. Thi nhân buồn trước thế sự đổi thay, đất nước loạn lạc, buồn vì cảnh cô đơn khi người thân lần lượt ra đi, chịu cảnh kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh. Còn lại một mình, nhà thơ tìm đến rượu để quên sầu, bởi với ông chỉ vài ba chén đã say, say thì ngủ, ngủ thì không nhớ, không sầu. Cảnh ngộ của một bậc quân tử tài năng nhưng gặp thời cuộc xui rủi, nhiễu nhương thật xót xa.
“Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến là cảnh thu, chén rượu đắng cay của thi nhân trước khốn cảnh cuộc đời. Bài thơ không nhắc đến chữ “thu” nào nhưng lại tràn đầy không khí mùa thu. Một mùa thu nhẹ nhàng, trầm lắng, man mác nỗi buồn, nỗi cô đơn của thi nhân. Qua đó, ta thấy được sự tinh tế và tài năng trong phong cách làm thơ của Nguyễn Khuyến.
Dàn ý Phân tích bài thơ Thu ẩm
a. Mở bài:
_Nguyễn Khuyến là tác giả xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam.
– Thu ẩm nằm trong chùm thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến và là một trong số những bài thơ thu nổi tiếng nhất của Nguyễn Khuyến
– Bài thơ là dòng cảm xúc của con người yêu đời, yêu quê hương, đất nước. Trong hình ảnh thu đó là hình ảnh đồng quê Bắc Bộ với dáng thu, hồn thu lung linh.
b. Thân bài:
– Hai câu đề:
Ba gian nhà có thấp le te,Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Không giống như những tác giả khác chọn không gian sáng làm tôn lên bức tranh thu. Nguyễn Khuyến chọn mùa thu trong không gian đặc biệt là buổi đêm “ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”. Cảnh thu thì không phải là những gì tươi đẹp, sang trọng, rực rỡ. Đó là cảnh nghèo khó “ba gian nhỏ cỏ”. Gian nhà cỏ là biểu trưng của cái nghèo, cái cực. Nhưng vào thơ Nguyễn Khuyến, cái nghèo dường như bị xóa nhòa. Từ láy “le te” gợi hình dung về mức độ thấp của cảnh vật. Bóng tối dường như bao trùm và khiến cảnh vật bị xóa nhòa.
– Hai câu thực:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,Làn áo lóng lánh bóng trăng loe.Hình ảnh thơ rất độc đáo: sương thu như màu khói phủ quanh bờ rào. Cách chọn hình ảnh rất bình dị, rất mộc mạc. Chi tiết bón trăng xuất hiện đã cho người đọc hình dung về hình ảnh mặt trăng in trên bóng nước tạo ra những gợn sóng lăn tăn khiến người nhìn có hình dung về bóng trăng loe. Âm “l” đứng đầy các từ gần nhau góp phần làm rõ hơn về bức tranh
Các phụ âm đầu 7 đứng gần nhau (Làn, lóng lánh, loe) đặc tả cảnh đó và thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến.
– Hai câu luận:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,Mắt lão không vậy cũng đỏ hoe.
Trong câu thơ này, tác giả miêu tả hình ảnh bầu trời. Bầu trời có màu xanh và xanh ở mức tuyệt đối “xanh ngắt”. Nghệ thuật nhân hóa “da trời” đã làm người đọc liên tưởng về hình ảnh thu tươi đẹp và giống như một người thiếu nữ xinh đẹp.
Đại từ phiếm chỉ “ai” đã làm người đọc hình dung về sự huyền bí, mờ ảo trong tác phẩm.
Đối tượng miêu tả thứ hai của tác giả là miêu tả chính bản thân mình. Đôi mắt đỏ hoe ở đây là đôi mắt chứa đầy những tâm trạng. Bởi lẽ, đôi mắt đỏ hoe chứa nhiều cảm xúc.
– Hai câu kết:
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,Chỉ dăm ba chén đã say nhè.
Cụm từ “tiếng rằng hay hay chẳng thấy” tức là thường xuyên uống rượt hoặc được hiểu là tửu lượng cao. Và dù “chỉ dăm ba chén” nhưng ta thấy được câu chuyện ở đây không phải là uống rượu. Mà đó chỉ là một vài chén. Uống rượu không nhằm say mà uống rượu để quên đi nỗi buồn thời thế.
* Nghệ thuật:
Thể thất ngôn bát cú Đường luật
Sáng tạo trong gieo vần và sử dụng từ ngữ
c. Kết bài:
– Tâm trạng u hoài của Nguyễn Khuyến thấm đượm vào cảnh vật. Nhà thơ đã làm rõ được tình thu và cảnh thu buồn bã.
Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 2
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tài năng, có cốt cách thanh cao và một lòng yêu nước thương dân. Ông từ bỏ chốn quan trường vì chán ghét chính quyền thực dân Pháp và bộ máy nhà nước phong kiến thối nát. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến bao gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong đó chùm thơ thu gồm ba bài nổi tiếng: “Thu điếu” (Mùa thu câu cá), “Thu vịnh” (Mùa thu làm thơ) và “Thu ẩm” (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng, thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.
Trong bài “Thu vịnh”, cảnh thu thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu xanh ngát, khóm tre thu nhỏ lại trong hình ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước, song thưa để mặc bóng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hồ… Hồn thu như lắng chìm vào bốn phương, ẩn chứa ở chiều sâu.
Trong bài “Thu điếu”, dáng thu và hồn thu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật: chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối.
Trở lại với hai bài thơ thu kia để so sánh, ta thấy rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài “Thu ẩm”. Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Nhưng ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị.
Hai câu đề:
“Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”
Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ xuống một bậc, nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng “thấp le te” đã rõ ra là lụp xụp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập lòe lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.
Hai câu thực:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.”
Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.
Hai câu luận:
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.”
Nguyễn Khuyến tả cảnh trời và cảnh mình. Dường như bầu trời và con người đều bị một thế lực vô hình nào đó làm cho biến đổi: Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ “ai” trong câu thơ lấp lửng một mối hoài nghi lấp lửng nhưng không vô ý. Đây cũng là biểu hiện tâm trạng của nhà thơ chăng? Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà mình thì đau đớn, day dứt không nguôi.
Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường:
“Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè.”
Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng? Bởi khi say thì nhìn một hóa thành hai, thành ba hoặc nhạt nhòa tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.
Âm thanh bài thơ cũng theo điệu ấy. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở các từ: “le te”, “lập lòe”, “loe”, “đỏ hoe”, “say nhè”. Tất cả các từ quy vào âm chủ đạo là “e”: từ “nhè”, “say nhè” mà ra rồi nhoè ra thành nguyên âm đôi “oè” (lập/oè), “oe” (loe, hoe), các vần này cũng lảo đảo say theo, say mạnh hơn. Cảnh vật cũng như say: ánh sáng đom đóm hóa lập lòe, bóng trăng chập chờn loe ra theo làn sóng, mắt người tự nhiên cũng đỏ hoe. Trong câu: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” có đến bốn tiếng có phụ âm “l” nối tiếp nhau, càng làm tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng mà ở cả mặt ao, làn nước và từ đó lan toả ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè”.
Nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu vắng. Sau dăm ba chén, hơi men đã khơi dậy tâm tư. Nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu. Cái hay, cái tài của bài thơ “Thu ẩm” là ở đó. Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu.
Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 3
Hình như trong thế giới của thi ca, mùa thu thường được liên kết với nỗi buồn, một loại buồn có đủ cung bậc, từ sâu sắc và nặng nề đến nhẹ nhàng và thoáng qua. Mỗi thi sĩ đều có một cách riêng để thể hiện nỗi buồn của mình khi nói đến mùa thu. Trong “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến, mùa thu không chỉ là nơi để thưởng thức rượu, mà còn là không gian của nỗi buồn, của một tâm hồn đơn côi đối mặt với cuộc sống. Tựa bài thơ, “Thu ẩm,” không chỉ là một nhãn tự mô tả hành động uống rượu trong mùa thu, mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn. Trong bài thơ này, Nguyễn Khuyến giác quan hóa mùa thu, tạo ra một bức tranh phong cách với đầy đủ sắc màu và âm thanh, tận dụng không gian để thể hiện nỗi buồn lẻ loi của một tâm hồn.
Nếu nhìn từ góc độ không gian và thời gian, bài thơ không giữ chặt một không gian hay thời điểm cụ thể. Có thể nhà thơ uống rượu và sáng tác trong một đêm thu nào đó, nhưng cảnh thu không nhất thiết phải là cảnh đêm tối. Điều này tạo ra sự linh hoạt và sự đa dạng trong bức tranh thu của Nguyễn Khuyến:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.
Ngôi nhà cô đơn, “thấp le te,” không phải là một lâu đài hoành tráng hay biểu tượng của sự giàu có, mà chỉ là một nơi bình dị, giản dị nằm giữa thiên nhiên hùng vĩ. Mái nhà bằng rơm rạ mang đến hình ảnh về cuộc sống thôn dã, nơi mà mọi thứ đều chân thành và không dư dả. Thi nhân, đang ngồi bên chén rượu, nhìn ra bức tranh tối tăm của màn đêm, tạo ra một không gian yên bình và huyền bí. Mô tả về màn đêm sâu thẳm làm tăng cường cảm giác của sự cô đơn và trầm lặng, đặt ra câu hỏi về ý nghĩa sâu xa của cuộc sống và tình thần. Bức tranh mà Nguyễn Khuyến vẽ lên không chỉ là cảnh đêm thu mà còn là hình ảnh về sự tĩnh lặng và hiểu biết về bản thân trong cô đơn. Ánh sáng đom đóm lập lòe như điểm nhấn trong bức tranh, mang lại sự ấm áp và huyền bí trong bóng tối. Những đám đom đóm như những đám hỏa trên bức tranh đêm tối, tạo nên bức tranh đẹp mắt và lãng mạn của đêm thu. Ánh sáng yếu ớt này là nguồn hy vọng và ấm áp duy nhất trong cảnh đêm u tối.
Nguyễn Khuyến không chỉ mô tả về không gian xung quanh mà còn kết hợp tâm trạng và cảm xúc của mình trong bức tranh thu. Sự tưởng tượng và trầm ngâm của ông trở thành một phần của cảnh vật, làm cho độc giả cảm nhận được sự sâu sắc và tinh tế trong bài thơ.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.
Đó là cảnh đêm trăng mùa thu, được ngắm nhìn từ bên cạnh ao nhà, nơi mà vẻ đẹp lóng lánh của bóng trăng bắt đầu hiện hữu: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Mỗi chi tiết trong cảnh vật được mô tả một cách sống động, từ sự long lanh của ao nước đến bóng trăng mê hoặc. Những từ ngữ như “lóng lánh” và “loe” không chỉ mô tả vẻ đẹp mà còn gợi lên một cảm giác thần tiên và trữ tình. Cảnh mùa thu còn được thể hiện qua ánh sáng mặt trời, khiến cho không gian trở nên rực rỡ và tươi mới: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Mô tả này không chỉ là việc mô tả một cảnh đẹp tự nhiên mà còn là cách nhấn mạnh vẻ tươi mới, sức sống của mùa thu, khiến nó trở nên gần gũi và thân thuộc.
Nguyễn Khuyến không chỉ mô tả cảnh vật bên ngoài mà còn làm sống động không gian tâm tưởng và ký ức của mình. Cảnh quê, hồn quê là những yếu tố quan trọng, thấm sâu vào tâm hồn ông, và khi ông viết thơ, những hình ảnh này lại trỗi dậy. Đây là cách làm thơ không chỉ dựa trên sự tưởng tượng mà còn là sự kết hợp tinh tế giữa hiện thực và trí tưởng tượng. Bài thơ thuật lại hình ảnh trăng mùa thu, một đề tài phổ biến trong thơ ca, nhưng lại mang đến một góc nhìn mới, tươi mới. Cách Nguyễn Khuyến chọn từ ngữ, xây dựng hình ảnh, và đặt câu chữ tạo nên một bức tranh thu độc đáo, mới lạ, khiến độc giả cảm nhận được vẻ đẹp của mùa thu một cách tươi mới và sâu sắc.
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến được vẽ nên trong những năm tháng ẩn dật tại quê nhà, là bức tranh của một tâm hồn trăn trở, đầy những xót xa và niềm đau. Trong đôi mắt đỏ hoe của ông, nổi lên một biểu hiện của nỗi buồn thương và đau đớn sâu sắc.
Nguyễn Khuyến, một nhà thơ và nhà nho, từng đỗ đầu thi hương và thi hội. Tuy nhiên, những danh hiệu và chức vụ của ông đã bị tước đoạt bởi quyết định của vua. Mỗi góc độ của bức chân dung tự họa đều là một tương tác với cuộc đời, với những thăng trầm đầy khổ người nho sĩ. Trong đôi mắt đỏ hoe của Nguyễn Khuyến, người đọc có thể nhìn thấy nhiều điều. Đó có thể là nỗi tiêu cực về cuộc sống, sự thất bại trong sự nghiệp, hay cảm giác của một tâm hồn đang mải mê tìm kiếm ý nghĩa. Mắt đỏ hoe đó còn là biểu hiện của những đau thương và tổn thương từ những trải nghiệm khắc nghiệt. Cụ Tam Nguyên, mặc dù từng có quãng thời gian nằm trong danh sách các nhà hội, nhưng cuộc sống của ông trải qua nhiều sóng gió. Sự phong kiến thăng trầm, sự mất mát trong sự nghiệp và cuộc sống, tất cả đã tạo nên một tâm hồn nặng nề và đau khổ. Nhà thơ Nguyễn Khuyến có lẽ đã trải qua những thời kỳ khó khăn, có lẽ cảm nhận được sự vô vọng của những nỗ lực và đau khổ của những mất mát. Chân dung tự họa không chỉ là bức tranh về vẻ ngoại hình mà còn là cửa sổ mở ra tâm hồn phong cách và đầy nhiệt huyết của một nhà thơ với cuộc sống và truyền thống văn hóa Việt Nam.
Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.
(Trở về vườn cũ)
Để giảm bớt cơn đau và hòa mình với nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã tìm đến sự giúp đỡ của túi thơ và bầu rượu. Trong thơ của ông, có một sự độc đáo khi ông tận dụng đề tài rượu, không giống như nhiều nhà thơ khác, ông không uống nhiều, nhưng sự uống rượu của ông không chỉ là để quên đi, mà còn là để ghi nhớ, để chứng kiến nỗi buồn. Sự tận dụng này tạo nên một cái tôi trữ tình, làm nổi bật những cảm xúc và tình cảm sâu sắc của nhà thơ. Trong văn hóa thơ ca Trung Quốc, Lí Bạch nổi tiếng với việc sáng tác về rượu, tuy nhiên, ở miền Nam Việt Nam, Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất với đề tài này. Trong bài thơ “Thu ẩm,” ông không chỉ làm tôn vinh vẻ đẹp của mùa thu, mà còn truyền đạt sâu sắc những cảm xúc đắng cay, nỗi buồn về tình hình đất nước.
Mặc dù bức tranh về việc nhà thơ uống rượu trong đêm thu có vẻ say sưa, nhưng thực chất, ông tỉnh táo. Việc uống rượu chỉ là một cách để giảm bớt đau thương, nhưng nỗi đau và buồn bã về tình hình đất nước vẫn hiện hữu trong tâm trí của Nguyễn Khuyến. Điều này làm nổi bật sự tận thức sâu sắc về tình yêu quê hương, về đất nước đang chịu đựng những thách thức và biến động. Bài thơ “Thu ẩm” không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật với những vần thơ xúc động, mà còn là một biểu tượng của tâm hồn sâu sắc và tinh tế của Nguyễn Khuyến. Nó không chỉ là một bức tranh thu mùa, mà còn là một bức tranh về tình yêu nước, về cái tôi trữ tình, và về những cảm xúc tinh tế nhất của một nhà thơ.
Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 7
Nguyễn Khuyễn, một nhà thơ tài năng và nhân vật với cốt cách thanh cao, đã dành trọn tâm hồn yêu nước và thương dân. Trong sự nghiệp thơ của mình, ông đã từ bỏ chốn quan trường, nơi mà nhiều người khác có thể chọn lựa để tu tâm và lập nghiệp. Quyết định này không khác nào một biểu hiện rõ ràng về sự chán ghét đối với chính quyền thực dân Pháp và bộ máy nhà nước phong kiến thối nát. Nổi tiếng với sự đa dạng và sâu sắc, tác phẩm thơ của Nguyễn Khuyễn bao gồm cả chữ Hán và Nôm. Trong danh mục tác phẩm ấn tượng của ông, chùm thơ thu bằng chữ Nôm và đặc biệt là “Thu Ẩm” là một tác phẩm nổi bật, làm nức danh tên tuổi của ông.
Tiêu đề “Thu Ẩm” có thể được giải đọc là mùa thu, nơi mà uống rượu không chỉ đơn thuần là việc nốc những giọt đắng cay trong chai hay bầu rượu, mà còn là một hành trình tinh tế, tận hưởng đầy những giá trị văn nhã. Điều này phản ánh sự tinh tế và trữ tình của một thi sĩ, mê mải nhìn nhận vẻ đẹp của mùa thu. Hai câu đầu của “Thu Ẩm” là những bức tranh tinh tế về mùa thu, như những dải ánh vàng ấm áp, làn hương hoa quyến rũ. Nó không chỉ là một bức tranh về mùa thu với những cung đường đẹp, mà còn là một chuyến phiêu lưu tinh thần, nơi tác giả trải qua mọi cảm xúc, từ hạnh phúc cho đến những khắc khoải bi ai.
“Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”
Khác biệt rõ ràng giữa cảnh mùa thu của “Thu ẩm” và Thu vịnh nằm trong cách tả của nhà thơ. Trong bức tranh của Thu ẩm, mỗi chi tiết được khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc, đưa người đọc đắm chìm vào không khí tĩnh lặng và dễ chịu của một quê hương bình dị. Nhìn chung, nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ hình ảnh phong phú và mô tả sắc màu đa dạng để tạo nên một cảnh mùa thu độc đáo và ấn tượng. Cảnh vật quê hương được mô tả rất sinh động, từ những con ngõ tối, ánh sáng lập lòe của đom đóm, màn sương đêm phất phơ, cho đến bầu trời mùa thu với màu xanh ngắt nền nã và trời thanh mát. Cảnh đêm tĩnh lặng của quê hương được tô điểm bởi bóng trăng “lóng lánh” trên mặt ao phẳng lặng và hình ảnh “bóng trăng loe” nhàn nhạt, tạo nên một không gian yên bình và trữ tình.
Đặc biệt, sự kết hợp giữa màu xanh của trời và sắc đỏ hoe trong đôi mắt người uống rượu đã tạo nên một bức tranh tinh tế và đầy cảm xúc. Hình ảnh “đỏ hoe” của đôi mắt không chỉ là sự tương phản với màu xanh của trời, mà còn chứa đựng sự ấm áp và say đắm của người uống rượu khi lặng lẽ thưởng thức cảnh mùa thu. Tác giả đã tận dụng tốt sức mạnh của từ ngữ và hình ảnh để tạo nên một không khí thuận buồm cho cảm xúc của người đọc. Những chi tiết chân thực, tinh tế đã làm cho bức tranh càng trở nên sống động và gần gũi với độc giả.
“Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè”
Đây là tiếng thơ của một thi nhân tinh tế, đàm phán về nền văn hóa của rượu mà nhà thơ thường nghe người khác ca tụng như một niềm vui tinh tế và tao nhã. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến, với cái nhìn sắc bén và tinh tế của mình, không hài lòng với sự kỳ vọng quá lớn đặt vào thứ đồ uống này. Trái ngược với quan điểm phổ biến, ông nhìn nhận rằng rượu chẳng có gì đặc biệt, “hay chả mấy”, không giống như lời đồn thổi đã làm cho nó trở nên quá mỹ mãn. Thú vị hơn, không chỉ là nhà thơ này không phải là người sành rượu, mà ông còn mô tả cảnh say rất nhẹ nhàng với “Độ năm ba chén đã say nhè”, tạo nên hình ảnh của một người trải nghiệm rượu lần đầu hoặc ít khi nào thử nghiệm. Điều này đặt ra câu hỏi rằng tại sao một nhà thơ như Nguyễn Khuyến lại chọn đến với rượu? Có thể hiểu rằng, trong bối cảnh xã hội xáo trộn, đất nước chấn động, ông tìm đến rượu như một lối thoát, một cách để giảm bớt nỗi buồn và cô đơn.
Phong cách uống rượu của Nguyễn Khuyến được miêu tả vô cùng lãng mạn và buồn bã. Cảnh vật uống rượu này là một khung cảnh tràn ngập sự cô đơn, vắng vẻ, và sự u uất trong từng bức tranh. Nhìn vào phong thái của nhà thơ khi uống rượu, chúng ta có thể cảm nhận được không khí buồn bã trước những biến cố của thời cuộc. Đất nước hỗn loạn, người thân ra đi, và ông trải qua sự cô đơn với những nỗi đau tuổi già và bệnh tật. Rượu trở thành nguồn an ủi, nơi ông có thể tìm được giây phút quên lãng, qua mỗi chén rượu, ông say mèm và chìm vào giấc ngủ, thoải mái và không còn nỗi buồn. Điều này làm cho câu thơ của Nguyễn Khuyến trở nên bi thương và đầy xót xa. Những tưởng vui vẻ của rượu đã chuyển thành nỗi đau lẻ loi của cuộc sống và những thất bại không lường trước được.
Bài thơ “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến không chỉ là một bức tranh về cảnh thu, mà còn là một tâm hồn đang trải qua những biến cố cuộc đời. Từ đầu đến cuối bài thơ, tác giả không nhắc đến từ “thu” một lần nào, nhưng người đọc có thể cảm nhận một mùa thu lạc lõng trong từng chi tiết, từng cảm xúc được gói gọn tinh tế. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “Rượu đắng cay chén”, ngay lập tức đưa người đọc chìm đắm vào không khí buồn bã, cô đơn. Rượu đắng cay không chỉ là đồ uống mà còn là biểu tượng cho những trải nghiệm đắng ngắt, khó khăn của cuộc sống. Chén rượu là người bạn đồng hành, đồng cảm với tâm hồn thi nhân. Mùa thu được tác giả mô tả qua những hình ảnh nhẹ nhàng, trầm lắng. “Mắt nồng sương, cửa trăng lên” là bức tranh tĩnh lặng của đêm thu, mặt trăng soi sáng mọi ngóc ngách như muốn chia sẻ nỗi lòng của nhà thơ. “Những tiếng rì rào” là âm thanh mơ hồ, gợi lên bức tranh một ngày thu yên bình, những tiếng lướt nhẹ của lá rơi, những tiếng còi xa xôi.
Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 8
Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu (Âm: uống, uống rượu). Nó có nghĩa là một trong bài thơ Nôm về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá) Thu vịnh (mùa thu làm thơ) và Thu ẩm.
Cũng có nhiều bài thơ khác về mùa thu bằng chữ Hán, ba bài này đều in đậm hai nét tiêu biểu cho tâm hồn thơ của tác giả: đó là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc bộ thời xưa và thắm đượm vào cảnh vật là tâm tư của nhà thơ trước cảnh tình đất nước thời gian ông từ quan về sống ở quê nhà. Tất nhiên, ở mỗi bài là dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng.
Dáng thu trong Thu ẩm là cái gì cao thăm thẳm xa vời, quen mà hóa lạ. Trời thu thì xanh ngắt những mấy từng; cây tre thu lại chỉ còn một cần trúc; khói phủ thành từng trên mặt nước; song cửa đê mặc ánh trăng vào; hoa năm nay giấu vào hoa năm ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ…
Hồn thu như lắng chìm vào bên trong, ấn chứa ở chiều sâu. Dáng thu, hồn thu trong Thu điếu là cái gì cũng như thu mình cho nhỏ bé, cho lặng im: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo, mặt ao chỉ gọn tí, mảnh lá vàng rơi vèo không thành tiếng, cá quẫy chỉ động nhẹ dưới chăn bèo.
Tất cả cùng mọi vật khác đều như im lìm trong một không khí lặng yên, tĩnh mịch của một sự đợi, đợi chờ tưởng như ông câu cũng hóa đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong cái lắng chìm vào bên trong, cái đợi chờ mỏi mòn trong yên lặng như thế.
Với lên hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là mượn chút so sánh để nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này. Dáng thu, hồn thu, cả tâm tư nhà thơ có khác.
Cảnh vật vẫn là cảnh vật ở hai bài thơ kia: Từ nhà từ vườn nhìn ra đồng, cái ao, rặng tre, hàng dậu, lối xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở hai bài thơ trên kia, Nguyễn Khuyến là nhà thơ, là ông câu cá, còn ở đây ông khề khà ly rượu. Nhưng cũng chính từ cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến dạng, đầy bất ngờ mà thú vị.
Hai câu đề:
Ba gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te đã rõ là thấp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối và đêm sâu lúc tối, lúc sáng thành ra cũng biến dạng.
Hai câu thực cũng vậy:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làm áo lóng lánh bóng trăng loe.
Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh cũng chẳng còn màu đêm. Câu thơ đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng không còn phẳng lặng mà lăn tăn gợn sóng và ánh trăng chiếu vào nên lóng lánh; bóng trăng chiếu xuống nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình mà chao lại loe ra, dồn lại, biến dạng liên tiếp.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Cảnh trời và cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến đổi: Trời thì ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy mà cũng đỏ hoe? Người nghiên cứu bảo cụ Tam nguyên đau mắt, có lần mắt đỏ như máu, hay là do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt.
Chữ “ai” lấp lửng một mối hoài nghi, nghe lửng lơ nhưng chắc không phải vô ý. Bỗng dưng lại lấy một thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời, rồi bỗng dưng mắt mình “đỏ hoe nước mắt”. Đây cũng là nét tâm tư của nhà thơ?
Nó cùng một mạch cảm thương như hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái, và tiếng ngỗng bay qua trời mình mà nghĩ mà ngỡ là ngỗng nước nào. Tâm tư nhà thơ không ngoài nét buồn đau trước cánh nước mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi.
Cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay chả mấy nên chỉ dăm ba chén đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại có sự biến hình đổi dạng này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa thành hai, ba, hoặc nhòa nhạt tất cả. Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe ra chập lại, lảo đảo như say.
Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở tất cả các từ: le te, lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l, càng tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả mặt ao, làn ao.
Từ đó mà cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè” ở chót câu cuối nhưng rồi âm thanh và ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.
Thế là nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau dăm ba chén, tâm tư đã nhòa ra, thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu, hồn thu đều cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu Ẩm này là ở đó.
Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khôn nguôi trong lòng. Mượn vài chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại thấy nỗi niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. Có lúc không rượu mà tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam nguyên đã tự cười mình và cũng thấy người mình như say: Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!