Phân tích bài thơ Thu ẩm

Phân tích bài thơ Thu ẩm

Phân tích bài thơ Thu ẩm

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 1

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tài năng, cốt cách thanh cao, yêu nước thương dân. Ông từng từ bỏ chốn quan trường vì chán ghét chính quyền thực dân Pháp và bộ máy phong kiến thối nát. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến đồ sộ, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, nổi tiếng nhất là chùm thơ thu bằng chữ Nôm, và “Thu ẩm” là một trong ba bài thơ nổi bật.

Nhan đề “Thu ẩm” có nghĩa là mùa thu và uống rượu. Từ “ẩm” ở đây không mang nghĩa uống nhanh, nhiều mà là nhâm nhi, thưởng thức đầy văn nhã của một thi sĩ trong khung cảnh mùa thu trữ tình. Hai câu đầu mở ra một cảnh tượng bình dị, thân thuộc:

“Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”

Cảnh mùa thu hiện lên trong đôi mắt của vị thi nhân ngà ngà men rượu là khung cảnh tối tăm, yên ắng, đặc trưng của làng quê. “Năm gian nhà cỏ thấp le te” gợi lên hình ảnh những ngôi nhà đơn sơ, thấp bé, phản ánh cuộc sống giản dị. Không gian tối tăm của những con “ngõ tối” cùng ánh sáng “lập lòe” của đom đóm thêm phần yên tĩnh và hoang sơ. Đó là màn sương đêm giăng “phất phơ” như “khói nhạt” bên lưng giậu, là ánh trăng nhàn nhạt “lóng lánh” trên mặt ao trước sân nhà, và đặc biệt là bầu trời mùa thu “xanh ngắt” nền nã, trong trẻo. Tất cả gợi nên một khung cảnh đầy thơ mộng và yên bình.

Bài thơ có nét đặc biệt ở chỗ, trong sáu câu đầu tả cảnh và tả người, tác giả sử dụng những nét bút cao thấp, gần xa, đậm nhạt để tạo nên một bức tranh phong phú. Cái thấp trong “Năm gian nhà cỏ thấp le te”, độ sâu của “đêm sâu”, sự nhẹ nhàng của sương khói bên giậu cúc tần và màu xanh ngắt của trời cao. Rồi đến ánh trăng “lóng lánh” trên mặt ao, phản chiếu nhàn nhạt như dát vàng. Khi tác giả nói “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”, ta cảm nhận được đôi mắt mơ màng trong men rượu, say trong cảnh thu thanh tĩnh.

Hai câu cuối:

“Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy Độ năm ba chén đã say nhè”

Nhà thơ nhận xét về rượu một cách vu vơ, nghe người đời ca tụng rượu là thú vui tao nhã nhưng với ông, “hay chả mấy”, không như lời đồn. Thi nhân cũng không phải người biết uống rượu, “Độ năm ba chén đã say nhè”. Liệu có phải thi nhân hiếm khi uống rượu? Và cớ sự gì khiến nhà thơ tìm đến rượu? Thông thường, uống rượu, làm thơ là thú vui tao nhã của những kẻ ẩn dật, văn nhân, thi sĩ. Ở đây, nhà thơ say nhưng vẫn giữ cốt cách văn nhã, quân tử, chỉ nhẹ nhàng “say nhè”, say nhưng không ồn ào, náo động, mà yên tĩnh, ngắm trăng trời rồi thiu thiu vào giấc ngủ.

Khung cảnh uống rượu của Nguyễn Khuyến gợi lên sự cô đơn, trống vắng. Thi nhân buồn trước thế sự đổi thay, đất nước loạn lạc, buồn vì cảnh cô đơn khi người thân lần lượt ra đi, chịu cảnh kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh. Còn lại một mình, nhà thơ tìm đến rượu để quên sầu, bởi với ông chỉ vài ba chén đã say, say thì ngủ, ngủ thì không nhớ, không sầu. Cảnh ngộ của một bậc quân tử tài năng nhưng gặp thời cuộc xui rủi, nhiễu nhương thật xót xa.

“Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến là cảnh thu, chén rượu đắng cay của thi nhân trước khốn cảnh cuộc đời. Bài thơ không nhắc đến chữ “thu” nào nhưng lại tràn đầy không khí mùa thu. Một mùa thu nhẹ nhàng, trầm lắng, man mác nỗi buồn, nỗi cô đơn của thi nhân. Qua đó, ta thấy được sự tinh tế và tài năng trong phong cách làm thơ của Nguyễn Khuyến.

Dàn ý Phân tích bài thơ Thu ẩm

a. Mở bài:

_Nguyễn Khuyến là tác giả xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam. 

– Thu ẩm nằm trong chùm thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến và là một trong số những bài thơ thu nổi tiếng nhất của Nguyễn Khuyến

– Bài thơ là dòng cảm xúc của con người yêu đời, yêu quê hương, đất nước. Trong hình ảnh thu đó là hình ảnh đồng quê Bắc Bộ với dáng thu, hồn thu lung linh. 

b. Thân bài:

– Hai câu đề:

Ba gian nhà có thấp le te,Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.

Không giống như những tác giả khác chọn không gian sáng làm tôn lên bức tranh thu. Nguyễn Khuyến chọn mùa thu trong không gian đặc biệt là buổi đêm “ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”. Cảnh thu thì không phải là những gì tươi đẹp, sang trọng, rực rỡ. Đó là cảnh nghèo khó “ba gian nhỏ cỏ”. Gian nhà cỏ là biểu trưng của cái nghèo, cái cực. Nhưng vào thơ Nguyễn Khuyến, cái nghèo dường như bị xóa nhòa. Từ láy “le te” gợi hình dung về mức độ thấp của cảnh vật. Bóng tối dường như bao trùm và khiến cảnh vật bị xóa nhòa. 

–  Hai câu thực:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,Làn áo lóng lánh bóng trăng loe.Hình ảnh thơ rất độc đáo: sương thu như màu khói phủ quanh bờ rào. Cách chọn hình ảnh rất bình dị, rất mộc mạc. Chi tiết bón trăng xuất hiện đã cho người đọc hình dung về hình ảnh mặt trăng in trên bóng nước tạo ra những gợn sóng lăn tăn khiến người nhìn có hình dung về bóng trăng loe. Âm “l” đứng đầy các từ gần nhau góp phần làm rõ hơn về bức tranh 

Các phụ âm đầu 7 đứng gần nhau (Làn, lóng lánh, loe) đặc tả cảnh đó và thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến.

– Hai câu luận:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,Mắt lão không vậy cũng đỏ hoe.

Trong câu thơ này, tác giả miêu tả hình ảnh bầu trời. Bầu trời có màu xanh và xanh ở mức tuyệt đối “xanh ngắt”. Nghệ thuật nhân hóa “da trời” đã làm người đọc liên tưởng về hình ảnh thu tươi đẹp và giống như một người thiếu nữ xinh đẹp. 

Đại từ phiếm chỉ “ai” đã làm người đọc hình dung về sự huyền bí, mờ ảo trong tác phẩm. 

Đối tượng miêu tả thứ hai của tác giả là miêu tả chính bản thân mình. Đôi mắt đỏ hoe ở đây là đôi mắt chứa đầy những tâm trạng. Bởi lẽ, đôi mắt đỏ hoe chứa nhiều cảm xúc. 

– Hai câu kết:

Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,Chỉ dăm ba chén đã say nhè.

Cụm từ “tiếng rằng hay hay chẳng thấy” tức là thường xuyên uống rượt hoặc được hiểu là tửu lượng cao. Và dù “chỉ dăm ba chén” nhưng ta thấy được câu chuyện ở đây không phải là uống rượu. Mà đó chỉ là một vài chén. Uống rượu không nhằm say mà uống rượu để quên đi nỗi buồn thời thế.  

* Nghệ thuật: 

Thể thất ngôn bát cú Đường luật

Sáng tạo trong gieo vần và sử dụng từ ngữ 

c. Kết bài:

– Tâm trạng u hoài của Nguyễn Khuyến thấm đượm vào cảnh vật. Nhà thơ đã làm rõ được tình thu và cảnh thu buồn bã.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 2

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tài năng, có cốt cách thanh cao và một lòng yêu nước thương dân. Ông từ bỏ chốn quan trường vì chán ghét chính quyền thực dân Pháp và bộ máy nhà nước phong kiến thối nát. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến bao gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong đó chùm thơ thu gồm ba bài nổi tiếng: “Thu điếu” (Mùa thu câu cá), “Thu vịnh” (Mùa thu làm thơ) và “Thu ẩm” (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng, thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Trong bài “Thu vịnh”, cảnh thu thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu xanh ngát, khóm tre thu nhỏ lại trong hình ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước, song thưa để mặc bóng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hồ… Hồn thu như lắng chìm vào bốn phương, ẩn chứa ở chiều sâu.

Trong bài “Thu điếu”, dáng thu và hồn thu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật: chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối.

Trở lại với hai bài thơ thu kia để so sánh, ta thấy rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài “Thu ẩm”. Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Nhưng ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị.

Hai câu đề:

“Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”

Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ xuống một bậc, nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng “thấp le te” đã rõ ra là lụp xụp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập lòe lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.

Hai câu thực:

“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.”

Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.

Hai câu luận:

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.”

Nguyễn Khuyến tả cảnh trời và cảnh mình. Dường như bầu trời và con người đều bị một thế lực vô hình nào đó làm cho biến đổi: Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ “ai” trong câu thơ lấp lửng một mối hoài nghi lấp lửng nhưng không vô ý. Đây cũng là biểu hiện tâm trạng của nhà thơ chăng? Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà mình thì đau đớn, day dứt không nguôi.

Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường:

“Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè.”

Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng? Bởi khi say thì nhìn một hóa thành hai, thành ba hoặc nhạt nhòa tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.

Âm thanh bài thơ cũng theo điệu ấy. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở các từ: “le te”, “lập lòe”, “loe”, “đỏ hoe”, “say nhè”. Tất cả các từ quy vào âm chủ đạo là “e”: từ “nhè”, “say nhè” mà ra rồi nhoè ra thành nguyên âm đôi “oè” (lập/oè), “oe” (loe, hoe), các vần này cũng lảo đảo say theo, say mạnh hơn. Cảnh vật cũng như say: ánh sáng đom đóm hóa lập lòe, bóng trăng chập chờn loe ra theo làn sóng, mắt người tự nhiên cũng đỏ hoe. Trong câu: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” có đến bốn tiếng có phụ âm “l” nối tiếp nhau, càng làm tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng mà ở cả mặt ao, làn nước và từ đó lan toả ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè”.

Nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu vắng. Sau dăm ba chén, hơi men đã khơi dậy tâm tư. Nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu. Cái hay, cái tài của bài thơ “Thu ẩm” là ở đó. Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu.

Phân tích bài thơ Thu ẩm

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 3

Trong thi ca, nhắc đến mùa thu là nhắc đến nỗi buồn – nỗi buồn trải ra với đầy đủ cung bậc: từ buồn thương, buồn nhớ, buồn man mác… Nhưng với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm sự khác nhau. Đến với “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng cảnh Việt Nam – người đọc lại được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Nhan đề “Thu ẩm” – mùa thu uống rượu – là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ.

Có thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài “Thu điếu” là nhất quán về không gian và thời gian. Còn ở bài “Thu vịnh” và “Thu ẩm” khó có thể xác định một không gian, thời gian cụ thể nào. Có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó nhưng cảnh thu không nhất thiết là cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt hiện về trong tâm trí, dệt nên bức tranh thu đa dạng.

Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnh:

“Năm gian nhà cỏ thấp le te Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.”

Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà cô đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng

rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm. Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm:

“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.”

Đó là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.” Đó là cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt.” Cảnh trong tâm tưởng mà rất thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để khi làm thơ thi hứng lại gọi về. Trăng mùa thu là thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động lạ thường khi được nhìn qua đôi mắt của thi sĩ làng quê Yên Đổ. Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà thơ có tài: “… câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ khả năng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi; từ loe, âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe) như cái ao chẳng hạn.” Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ ở phương diện ngữ âm. Nhưng để có cái hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết là ở cách nhìn, ở hướng tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu tả trăng thu. Nhìn trăng qua ao mới có vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng lên mới tạo ra những chùm sáng loe như thế. Một thi sĩ tài năng thì không có đề tài nào là mòn cũ, không có câu chữ nào là mất đi sức sống.

“Thu ẩm” là mùa thu uống rượu mà mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiện:

“Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy Độ năm ba chén đã say nhè.”

Đó là chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật ở quê nhà. Nỗi niềm gì đang xót lòng xót dạ người nho sĩ ấy đến mức mắt đỏ hoe, rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên. Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội, đã từng được vua ban chức này tước nọ mà Nguyễn Khuyến không chút đắc ý về cuộc đời mình. Có lúc ông còn thấy việc học cũ là viển vông vô ích, việc làm quan trong thời buổi ấy là nỗi nhục. Tưởng là trở về vườn xưa chốn cũ để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng buồn đau:

“Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.”

Để dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi thơ, bầu rượu. Ở Trung Quốc có nhà thơ Lí Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, ở nước Nam ta không có ai nói về rượu trong thơ nhiều như Nguyễn Khuyến. Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để mà quên, để mà say còn Nguyễn Khuyến uống rượu lại càng nhớ, lại càng buồn. Cái tôi trữ tình của nhà thơ trong bài “Thu ẩm” bề ngoài thì có vẻ say nhè nhưng thực chất là rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không quên được nỗi đau buồn về non sông đất nước.

Bức tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần thơ đầy xúc động. Bài thơ, ngoài nhan đề “Thu ẩm” chẳng có thêm một chữ “thu” nào, thế mà hồn thu, hơi thu lan tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật và dư âm thu vẫn lan tỏa mãi trong lòng người đọc. Với “Thu ẩm”, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu ấn và âm hưởng riêng của một Nguyễn Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận nước. Niềm yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo mà không kém phần sâu sắc.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 4

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học dân tộc, có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. “Thu ẩm” là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: “Thu điếu”, “Thu ẩm” và “Thu vịnh”. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam.

Nhan đề bài thơ “Thu ẩm” có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: “Thu điếu” (Mùa thu câu cá), “Thu vịnh” (Mùa thu làm thơ), “Thu ẩm” (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Trong bài “Thu ẩm”, cảnh thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ đều được thể hiện. Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc: từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Nhưng ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị.

“Hai câu đầu mở ra khung cảnh đơn sơ, bình dị: Ba gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.”

Nhà cỏ, dùng để chỉ ngôi nhà đơn sơ, nhưng “thấp le te” thì đã cho thấy là lụp xụp và chẳng còn lành lặn. Mái tranh đã rách nát, xác xơ. Tiếp đến, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập lòe lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.

“Hai câu thực tiếp theo tiếp tục miêu tả cảnh vật trong màn đêm: Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.”

Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.

“Hai câu luận thể hiện sự cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về cảnh vật và con người: Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.”

Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà say đến “say nhè”: “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. “Say nhè” là say êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha.

“Trong sáu câu thơ đầu thì đã có đến năm câu đều có màu sắc thể hiện một cái nhìn đêm thu lúc ngồi uống rượu một mình. Có màu đen thẫm mịt mùng của đêm sâu ngõ tối. Có ánh sáng “lập loè” của bầy đom đóm. Có sắc trắng nhờ của “màu khói nhạt” nhẹ bay “phất phơ” trên lưng giậu cúc tần trước sân của năm gian nhà cỏ bình dị. Có màu vàng của bóng trăng loe tan ra lóng lánh trên làn ao “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” trong veo. Có da trời màu “xanh ngắt” rất đẹp. Và sắc “đỏ hoe” của đôi mắt ông lão, của thi nhân đang uống rượu âm thầm.”

Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường:

“Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy Chỉ dăm ba chén đã say nhè.”

Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.

Bài thơ, ngoài đầu đề “Thu ẩm” ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy: le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh… với các từ rượu, chén, say nhè, cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm.

Với bài “Thu ẩm”, nhà thơ thể hiện sự buồn bã, day dứt trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn. Tất cả cũng đều vì tình yêu quê hương đất nước của tác giả.

Phân tích bài thơ Thu ẩm

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 5

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học dân tộc, có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. “Thu ẩm” là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: “Thu điếu,” “Thu vịnh,” và “Thu ẩm.” Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam.

Nhan đề bài thơ “Thu ẩm” có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: “Thu điếu” (Mùa thu câu cá), “Thu vịnh” (Mùa thu làm thơ), “Thu ẩm” (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Trong bài “Thu ẩm,” cảnh thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ đều được thể hiện. Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc: từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Nhưng ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị.

Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnh:

Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.

Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te.” Từ nơi ấy thi nhân nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm. Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến tạo nên một bức tranh thu đầy mê hoặc không chỉ qua cảnh vật mà còn qua tâm trạng và tâm hồn của chính ông. Mỗi chi tiết, mỗi từ ngữ đều được chọn lọc một cách tinh tế để tạo ra bức tranh chân thực và sâu sắc về cảnh đời và tâm lý của nhà thơ. Chuyển động của cảnh vật và tâm hồn của người nhìn như hòa quyện vào nhau, tạo nên một không khí lãng mạn và buồn bã. Mô tả về bầu trời xanh ngắt và ánh đỏ hoe của mắt tạo nên một hình ảnh phức tạp, đầy nhiều ý nghĩa. Câu hỏi “Ai nhuộm da trời xanh ngắt?” là một cách tinh tế để tạo ra sự thắc mắc và tò mò, đồng thời đặt ra những câu hỏi về nguồn gốc của màu sắc trong bức tranh thu.

Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.

Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng? Bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.

Bài thơ, ngoài đầu đề “Thu ẩm” ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy: “le te,” “lập loè,” “phất phơ,” “lóng lánh”… với các từ “rượu,” “chén,” “say nhè,” cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm.

Với bài “Thu ẩm,” nhà thơ thể hiện sự buồn bã, day dứt trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn. Tất cả cũng đều vì tình yêu quê hương đất nước của tác giả.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 6

Hình như trong thế giới của thi ca, mùa thu thường được liên kết với nỗi buồn, một loại buồn có đủ cung bậc, từ sâu sắc và nặng nề đến nhẹ nhàng và thoáng qua. Mỗi thi sĩ đều có một cách riêng để thể hiện nỗi buồn của mình khi nói đến mùa thu. Trong “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến, mùa thu không chỉ là nơi để thưởng thức rượu, mà còn là không gian của nỗi buồn, của một tâm hồn đơn côi đối mặt với cuộc sống. Tựa bài thơ, “Thu ẩm,” không chỉ là một nhãn tự mô tả hành động uống rượu trong mùa thu, mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn. Trong bài thơ này, Nguyễn Khuyến giác quan hóa mùa thu, tạo ra một bức tranh phong cách với đầy đủ sắc màu và âm thanh, tận dụng không gian để thể hiện nỗi buồn lẻ loi của một tâm hồn.

Nếu nhìn từ góc độ không gian và thời gian, bài thơ không giữ chặt một không gian hay thời điểm cụ thể. Có thể nhà thơ uống rượu và sáng tác trong một đêm thu nào đó, nhưng cảnh thu không nhất thiết phải là cảnh đêm tối. Điều này tạo ra sự linh hoạt và sự đa dạng trong bức tranh thu của Nguyễn Khuyến:

Năm gian nhà cỏ thấp le te

Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.

Ngôi nhà cô đơn, “thấp le te,” không phải là một lâu đài hoành tráng hay biểu tượng của sự giàu có, mà chỉ là một nơi bình dị, giản dị nằm giữa thiên nhiên hùng vĩ. Mái nhà bằng rơm rạ mang đến hình ảnh về cuộc sống thôn dã, nơi mà mọi thứ đều chân thành và không dư dả. Thi nhân, đang ngồi bên chén rượu, nhìn ra bức tranh tối tăm của màn đêm, tạo ra một không gian yên bình và huyền bí. Mô tả về màn đêm sâu thẳm làm tăng cường cảm giác của sự cô đơn và trầm lặng, đặt ra câu hỏi về ý nghĩa sâu xa của cuộc sống và tình thần. Bức tranh mà Nguyễn Khuyến vẽ lên không chỉ là cảnh đêm thu mà còn là hình ảnh về sự tĩnh lặng và hiểu biết về bản thân trong cô đơn. Ánh sáng đom đóm lập lòe như điểm nhấn trong bức tranh, mang lại sự ấm áp và huyền bí trong bóng tối. Những đám đom đóm như những đám hỏa trên bức tranh đêm tối, tạo nên bức tranh đẹp mắt và lãng mạn của đêm thu. Ánh sáng yếu ớt này là nguồn hy vọng và ấm áp duy nhất trong cảnh đêm u tối.

Nguyễn Khuyến không chỉ mô tả về không gian xung quanh mà còn kết hợp tâm trạng và cảm xúc của mình trong bức tranh thu. Sự tưởng tượng và trầm ngâm của ông trở thành một phần của cảnh vật, làm cho độc giả cảm nhận được sự sâu sắc và tinh tế trong bài thơ.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.

Đó là cảnh đêm trăng mùa thu, được ngắm nhìn từ bên cạnh ao nhà, nơi mà vẻ đẹp lóng lánh của bóng trăng bắt đầu hiện hữu: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Mỗi chi tiết trong cảnh vật được mô tả một cách sống động, từ sự long lanh của ao nước đến bóng trăng mê hoặc. Những từ ngữ như “lóng lánh” và “loe” không chỉ mô tả vẻ đẹp mà còn gợi lên một cảm giác thần tiên và trữ tình. Cảnh mùa thu còn được thể hiện qua ánh sáng mặt trời, khiến cho không gian trở nên rực rỡ và tươi mới: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Mô tả này không chỉ là việc mô tả một cảnh đẹp tự nhiên mà còn là cách nhấn mạnh vẻ tươi mới, sức sống của mùa thu, khiến nó trở nên gần gũi và thân thuộc.

Nguyễn Khuyến không chỉ mô tả cảnh vật bên ngoài mà còn làm sống động không gian tâm tưởng và ký ức của mình. Cảnh quê, hồn quê là những yếu tố quan trọng, thấm sâu vào tâm hồn ông, và khi ông viết thơ, những hình ảnh này lại trỗi dậy. Đây là cách làm thơ không chỉ dựa trên sự tưởng tượng mà còn là sự kết hợp tinh tế giữa hiện thực và trí tưởng tượng. Bài thơ thuật lại hình ảnh trăng mùa thu, một đề tài phổ biến trong thơ ca, nhưng lại mang đến một góc nhìn mới, tươi mới. Cách Nguyễn Khuyến chọn từ ngữ, xây dựng hình ảnh, và đặt câu chữ tạo nên một bức tranh thu độc đáo, mới lạ, khiến độc giả cảm nhận được vẻ đẹp của mùa thu một cách tươi mới và sâu sắc.

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè.

Chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến được vẽ nên trong những năm tháng ẩn dật tại quê nhà, là bức tranh của một tâm hồn trăn trở, đầy những xót xa và niềm đau. Trong đôi mắt đỏ hoe của ông, nổi lên một biểu hiện của nỗi buồn thương và đau đớn sâu sắc.

Nguyễn Khuyến, một nhà thơ và nhà nho, từng đỗ đầu thi hương và thi hội. Tuy nhiên, những danh hiệu và chức vụ của ông đã bị tước đoạt bởi quyết định của vua. Mỗi góc độ của bức chân dung tự họa đều là một tương tác với cuộc đời, với những thăng trầm đầy khổ người nho sĩ. Trong đôi mắt đỏ hoe của Nguyễn Khuyến, người đọc có thể nhìn thấy nhiều điều. Đó có thể là nỗi tiêu cực về cuộc sống, sự thất bại trong sự nghiệp, hay cảm giác của một tâm hồn đang mải mê tìm kiếm ý nghĩa. Mắt đỏ hoe đó còn là biểu hiện của những đau thương và tổn thương từ những trải nghiệm khắc nghiệt. Cụ Tam Nguyên, mặc dù từng có quãng thời gian nằm trong danh sách các nhà hội, nhưng cuộc sống của ông trải qua nhiều sóng gió. Sự phong kiến thăng trầm, sự mất mát trong sự nghiệp và cuộc sống, tất cả đã tạo nên một tâm hồn nặng nề và đau khổ. Nhà thơ Nguyễn Khuyến có lẽ đã trải qua những thời kỳ khó khăn, có lẽ cảm nhận được sự vô vọng của những nỗ lực và đau khổ của những mất mát. Chân dung tự họa không chỉ là bức tranh về vẻ ngoại hình mà còn là cửa sổ mở ra tâm hồn phong cách và đầy nhiệt huyết của một nhà thơ với cuộc sống và truyền thống văn hóa Việt Nam.

Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn

Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.

(Trở về vườn cũ)

Để giảm bớt cơn đau và hòa mình với nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã tìm đến sự giúp đỡ của túi thơ và bầu rượu. Trong thơ của ông, có một sự độc đáo khi ông tận dụng đề tài rượu, không giống như nhiều nhà thơ khác, ông không uống nhiều, nhưng sự uống rượu của ông không chỉ là để quên đi, mà còn là để ghi nhớ, để chứng kiến nỗi buồn. Sự tận dụng này tạo nên một cái tôi trữ tình, làm nổi bật những cảm xúc và tình cảm sâu sắc của nhà thơ. Trong văn hóa thơ ca Trung Quốc, Lí Bạch nổi tiếng với việc sáng tác về rượu, tuy nhiên, ở miền Nam Việt Nam, Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất với đề tài này. Trong bài thơ “Thu ẩm,” ông không chỉ làm tôn vinh vẻ đẹp của mùa thu, mà còn truyền đạt sâu sắc những cảm xúc đắng cay, nỗi buồn về tình hình đất nước.

Mặc dù bức tranh về việc nhà thơ uống rượu trong đêm thu có vẻ say sưa, nhưng thực chất, ông tỉnh táo. Việc uống rượu chỉ là một cách để giảm bớt đau thương, nhưng nỗi đau và buồn bã về tình hình đất nước vẫn hiện hữu trong tâm trí của Nguyễn Khuyến. Điều này làm nổi bật sự tận thức sâu sắc về tình yêu quê hương, về đất nước đang chịu đựng những thách thức và biến động. Bài thơ “Thu ẩm” không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật với những vần thơ xúc động, mà còn là một biểu tượng của tâm hồn sâu sắc và tinh tế của Nguyễn Khuyến. Nó không chỉ là một bức tranh thu mùa, mà còn là một bức tranh về tình yêu nước, về cái tôi trữ tình, và về những cảm xúc tinh tế nhất của một nhà thơ.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 7

Nguyễn Khuyễn, một nhà thơ tài năng và nhân vật với cốt cách thanh cao, đã dành trọn tâm hồn yêu nước và thương dân. Trong sự nghiệp thơ của mình, ông đã từ bỏ chốn quan trường, nơi mà nhiều người khác có thể chọn lựa để tu tâm và lập nghiệp. Quyết định này không khác nào một biểu hiện rõ ràng về sự chán ghét đối với chính quyền thực dân Pháp và bộ máy nhà nước phong kiến thối nát. Nổi tiếng với sự đa dạng và sâu sắc, tác phẩm thơ của Nguyễn Khuyễn bao gồm cả chữ Hán và Nôm. Trong danh mục tác phẩm ấn tượng của ông, chùm thơ thu bằng chữ Nôm và đặc biệt là “Thu Ẩm” là một tác phẩm nổi bật, làm nức danh tên tuổi của ông.

Tiêu đề “Thu Ẩm” có thể được giải đọc là mùa thu, nơi mà uống rượu không chỉ đơn thuần là việc nốc những giọt đắng cay trong chai hay bầu rượu, mà còn là một hành trình tinh tế, tận hưởng đầy những giá trị văn nhã. Điều này phản ánh sự tinh tế và trữ tình của một thi sĩ, mê mải nhìn nhận vẻ đẹp của mùa thu. Hai câu đầu của “Thu Ẩm” là những bức tranh tinh tế về mùa thu, như những dải ánh vàng ấm áp, làn hương hoa quyến rũ. Nó không chỉ là một bức tranh về mùa thu với những cung đường đẹp, mà còn là một chuyến phiêu lưu tinh thần, nơi tác giả trải qua mọi cảm xúc, từ hạnh phúc cho đến những khắc khoải bi ai.

“Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”

Khác biệt rõ ràng giữa cảnh mùa thu của “Thu ẩm” và Thu vịnh nằm trong cách tả của nhà thơ. Trong bức tranh của Thu ẩm, mỗi chi tiết được khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc, đưa người đọc đắm chìm vào không khí tĩnh lặng và dễ chịu của một quê hương bình dị. Nhìn chung, nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ hình ảnh phong phú và mô tả sắc màu đa dạng để tạo nên một cảnh mùa thu độc đáo và ấn tượng. Cảnh vật quê hương được mô tả rất sinh động, từ những con ngõ tối, ánh sáng lập lòe của đom đóm, màn sương đêm phất phơ, cho đến bầu trời mùa thu với màu xanh ngắt nền nã và trời thanh mát. Cảnh đêm tĩnh lặng của quê hương được tô điểm bởi bóng trăng “lóng lánh” trên mặt ao phẳng lặng và hình ảnh “bóng trăng loe” nhàn nhạt, tạo nên một không gian yên bình và trữ tình.

Đặc biệt, sự kết hợp giữa màu xanh của trời và sắc đỏ hoe trong đôi mắt người uống rượu đã tạo nên một bức tranh tinh tế và đầy cảm xúc. Hình ảnh “đỏ hoe” của đôi mắt không chỉ là sự tương phản với màu xanh của trời, mà còn chứa đựng sự ấm áp và say đắm của người uống rượu khi lặng lẽ thưởng thức cảnh mùa thu. Tác giả đã tận dụng tốt sức mạnh của từ ngữ và hình ảnh để tạo nên một không khí thuận buồm cho cảm xúc của người đọc. Những chi tiết chân thực, tinh tế đã làm cho bức tranh càng trở nên sống động và gần gũi với độc giả.

“Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè”

Đây là tiếng thơ của một thi nhân tinh tế, đàm phán về nền văn hóa của rượu mà nhà thơ thường nghe người khác ca tụng như một niềm vui tinh tế và tao nhã. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến, với cái nhìn sắc bén và tinh tế của mình, không hài lòng với sự kỳ vọng quá lớn đặt vào thứ đồ uống này. Trái ngược với quan điểm phổ biến, ông nhìn nhận rằng rượu chẳng có gì đặc biệt, “hay chả mấy”, không giống như lời đồn thổi đã làm cho nó trở nên quá mỹ mãn. Thú vị hơn, không chỉ là nhà thơ này không phải là người sành rượu, mà ông còn mô tả cảnh say rất nhẹ nhàng với “Độ năm ba chén đã say nhè”, tạo nên hình ảnh của một người trải nghiệm rượu lần đầu hoặc ít khi nào thử nghiệm. Điều này đặt ra câu hỏi rằng tại sao một nhà thơ như Nguyễn Khuyến lại chọn đến với rượu? Có thể hiểu rằng, trong bối cảnh xã hội xáo trộn, đất nước chấn động, ông tìm đến rượu như một lối thoát, một cách để giảm bớt nỗi buồn và cô đơn.

Phong cách uống rượu của Nguyễn Khuyến được miêu tả vô cùng lãng mạn và buồn bã. Cảnh vật uống rượu này là một khung cảnh tràn ngập sự cô đơn, vắng vẻ, và sự u uất trong từng bức tranh. Nhìn vào phong thái của nhà thơ khi uống rượu, chúng ta có thể cảm nhận được không khí buồn bã trước những biến cố của thời cuộc. Đất nước hỗn loạn, người thân ra đi, và ông trải qua sự cô đơn với những nỗi đau tuổi già và bệnh tật. Rượu trở thành nguồn an ủi, nơi ông có thể tìm được giây phút quên lãng, qua mỗi chén rượu, ông say mèm và chìm vào giấc ngủ, thoải mái và không còn nỗi buồn. Điều này làm cho câu thơ của Nguyễn Khuyến trở nên bi thương và đầy xót xa. Những tưởng vui vẻ của rượu đã chuyển thành nỗi đau lẻ loi của cuộc sống và những thất bại không lường trước được.

Bài thơ “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến không chỉ là một bức tranh về cảnh thu, mà còn là một tâm hồn đang trải qua những biến cố cuộc đời. Từ đầu đến cuối bài thơ, tác giả không nhắc đến từ “thu” một lần nào, nhưng người đọc có thể cảm nhận một mùa thu lạc lõng trong từng chi tiết, từng cảm xúc được gói gọn tinh tế. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “Rượu đắng cay chén”, ngay lập tức đưa người đọc chìm đắm vào không khí buồn bã, cô đơn. Rượu đắng cay không chỉ là đồ uống mà còn là biểu tượng cho những trải nghiệm đắng ngắt, khó khăn của cuộc sống. Chén rượu là người bạn đồng hành, đồng cảm với tâm hồn thi nhân. Mùa thu được tác giả mô tả qua những hình ảnh nhẹ nhàng, trầm lắng. “Mắt nồng sương, cửa trăng lên” là bức tranh tĩnh lặng của đêm thu, mặt trăng soi sáng mọi ngóc ngách như muốn chia sẻ nỗi lòng của nhà thơ. “Những tiếng rì rào” là âm thanh mơ hồ, gợi lên bức tranh một ngày thu yên bình, những tiếng lướt nhẹ của lá rơi, những tiếng còi xa xôi.

Phân tích bài thơ Thu ẩm – mẫu 8

Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu (Âm: uống, uống rượu). Nó có nghĩa là một trong bài thơ Nôm về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá) Thu vịnh (mùa thu làm thơ) và Thu ẩm.

Cũng có nhiều bài thơ khác về mùa thu bằng chữ Hán, ba bài này đều in đậm hai nét tiêu biểu cho tâm hồn thơ của tác giả: đó là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc bộ thời xưa và thắm đượm vào cảnh vật là tâm tư của nhà thơ trước cảnh tình đất nước thời gian ông từ quan về sống ở quê nhà. Tất nhiên, ở mỗi bài là dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng.

Dáng thu trong Thu ẩm là cái gì cao thăm thẳm xa vời, quen mà hóa lạ. Trời thu thì xanh ngắt những mấy từng; cây tre thu lại chỉ còn một cần trúc; khói phủ thành từng trên mặt nước; song cửa đê mặc ánh trăng vào; hoa năm nay giấu vào hoa năm ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ…

Hồn thu như lắng chìm vào bên trong, ấn chứa ở chiều sâu. Dáng thu, hồn thu trong Thu điếu là cái gì cũng như thu mình cho nhỏ bé, cho lặng im: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo, mặt ao chỉ gọn tí, mảnh lá vàng rơi vèo không thành tiếng, cá quẫy chỉ động nhẹ dưới chăn bèo.

Tất cả cùng mọi vật khác đều như im lìm trong một không khí lặng yên, tĩnh mịch của một sự đợi, đợi chờ tưởng như ông câu cũng hóa đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong cái lắng chìm vào bên trong, cái đợi chờ mỏi mòn trong yên lặng như thế.

Với lên hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là mượn chút so sánh để nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này. Dáng thu, hồn thu, cả tâm tư nhà thơ có khác.

Cảnh vật vẫn là cảnh vật ở hai bài thơ kia: Từ nhà từ vườn nhìn ra đồng, cái ao, rặng tre, hàng dậu, lối xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở hai bài thơ trên kia, Nguyễn Khuyến là nhà thơ, là ông câu cá, còn ở đây ông khề khà ly rượu. Nhưng cũng chính từ cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến dạng, đầy bất ngờ mà thú vị.

Hai câu đề:

Ba gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe

Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te đã rõ là thấp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối và đêm sâu lúc tối, lúc sáng thành ra cũng biến dạng.

Hai câu thực cũng vậy:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làm áo lóng lánh bóng trăng loe.

Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh cũng chẳng còn màu đêm. Câu thơ đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng không còn phẳng lặng mà lăn tăn gợn sóng và ánh trăng chiếu vào nên lóng lánh; bóng trăng chiếu xuống nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình mà chao lại loe ra, dồn lại, biến dạng liên tiếp.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Cảnh trời và cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến đổi: Trời thì ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy mà cũng đỏ hoe? Người nghiên cứu bảo cụ Tam nguyên đau mắt, có lần mắt đỏ như máu, hay là do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt.

Chữ “ai” lấp lửng một mối hoài nghi, nghe lửng lơ nhưng chắc không phải vô ý. Bỗng dưng lại lấy một thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời, rồi bỗng dưng mắt mình “đỏ hoe nước mắt”. Đây cũng là nét tâm tư của nhà thơ?

Nó cùng một mạch cảm thương như hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái, và tiếng ngỗng bay qua trời mình mà nghĩ mà ngỡ là ngỗng nước nào. Tâm tư nhà thơ không ngoài nét buồn đau trước cánh nước mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi.

Cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay chả mấy nên chỉ dăm ba chén đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại có sự biến hình đổi dạng này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa thành hai, ba, hoặc nhòa nhạt tất cả. Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe ra chập lại, lảo đảo như say.

Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở tất cả các từ: le te, lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l, càng tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả mặt ao, làn ao.

Từ đó mà cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè” ở chót câu cuối nhưng rồi âm thanh và ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.

Thế là nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau dăm ba chén, tâm tư đã nhòa ra, thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu, hồn thu đều cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu Ẩm này là ở đó.

Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khôn nguôi trong lòng. Mượn vài chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại thấy nỗi niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. Có lúc không rượu mà tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam nguyên đã tự cười mình và cũng thấy người mình như say: Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!