Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn.

Bài làm

Trong truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biền ngẫu).

Nội dung truyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính của truyện là viên quan phủ. Cốt truyện gồm ba cảnh, diễn biến theo trình tự thời gian : Cảnh 1: Mưa to gió lớn, nước lũ dâng cao, đê sắp vỡ, dân chúng hối hả đắp đất giữu đê. Cảnh 2: Đám quan lại, nha lệ, lính tráng mải mê đánh tổ tôm trong đình. Cảnh 3: Vỡ đê. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phản giữa sự ăn chơi hưởng lạc của nhứng kẻ cầm quyền với nối cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó lên án gay gắt giai cấp thống trị thối nát, bất tài và vô trách nhiệm trước tài sản, tính mạng của dân nghèo, đồng thời bày tỏ mối thương cảm sâu sắc của mình trước những nối đau thương,, hoạn nạn của đồng bào.

Mở đầu thiên truyện là tình thế vô cùng nguy hiểm của khúc đê sông Nhị. Thế đê được nhà văn tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian, không gian: Gần một giờ đêm. Trời mữa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá ; khúc sông làng X thuộc Phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.

Cảnh hàng trăm nghìn con người hốt hoảng, lo lắng, tất bật… tìm mọi cách để giữ cho con đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của nước lũ được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương:… kẻ thì thuỗng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bóm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thê thảm.

Không khí căng thẳng, hãi hùng. Sự đối lập giữa sức người với sức nước đã lên tới điểm đỉnh : Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lữ cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi ! Sức người khó lòng định nỗi với sức trời ! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay ! Nguy thay ! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình ấy, lũ con dân đang chân lầm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thôi nào quan cha mẹ ở đâu?

Thưa rằng : Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm trước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vưng chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.

Ở cảnh hai này, tác giả kể chuyện viê quan phủ mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn, Giọng văn tường thuật khách quan cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mĩa mai, châm biếm và phẩn uất.

Trước nguy cơ đê bị vỡ, bậc “phụ mẫu chi dân” cũng đích thân ra “chỉ đạo” việc hộ đê, nhưng trớ trêu thay, chỗ của ngài không phải là ở giữa đám dân đen đang vất vả, lấn láp, ra sức cứu đê mà lại ở trong đình với không khí, quang cảnh thật trang nghiêm, nhàn hạ; đèn thắp sáng trưng; nha lệ kính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập, mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sê phẩy… Đặc biệt là quanh quan có đủ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Quan nhàn hạ, ung dung, không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy thì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê tất bật ngoài kia của dân phu. Dựng lên hai cảnh đối lập, tác giả có dụng ý tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm, sống chết mặc bay của bọn quan lại phong kiến đương thời.

Trên cái nền là cảnh toan chống giặc nước, chân dung “quan phụ mẫu” hiện lên rõ ràng qua nhưng nét vẽ sinh động về hình dạng, cử chỉ, lời nói và diễn biến tâm lý nhân vật. Người đọc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, tính mạng và của cải của hàng nghìn con người con người đang bị đe dọa từng giờ từng phút, vậy mà ” quan phụ mẫu” vẫn điềm nhiên vui chơi, hưởng lạc. Xung quanh hắn bầy biện đủ thứ sang trọng, xa hoa: Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tia, hai bên nào ống bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, vỉ thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.

Quả là hoàn toàn trái ngược với hình ảnh:… mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít… trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê… Sự đối lập đó càng làm nổi bật tính cách ích kỉ, độc ác, vô nhân đạo của tên quan phủ và thmar cảnh của dân chúng ; đồng thời góp phần gia tăng ý nghĩa phê phán gay gắt của truyện.

Trong khi thảm họa vỡ đê khủng khiếp đang ập vào mắt dân chúng thì bọn nha lại tay chân vẫn cúc cung hầu hạ quan lớn đánh bạc. Tuy chỉ là một cuộc chơi, lại chơi khi làm nhiệm vụ đôn đốc dân phu hộ đê nhưng quan lớn vẫn giữ cái trật tự trên duois và không khí tôn nghiêm, nghi vệ như ở chốn công đường : Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bàn. Mặc cho dân tình nháo nhác, khổ sở, quan vẫn mải mê dồn hết tâm trí vào các quân bài tổ tôm. Cung cách ấy tố cáo bản chất xấu xa cùng thái độ vô trách nhiệm đến mức vô cùng nhân đạo của hắn.

Nếu ở trên mặt đê, khong khí sôi động, nhổn nháo, hối hả với công việc cứu đe thì trong đình không khí cũng rộn ràng với những lời lẽ xoay quanh ván bài đen đỏ : “Bát sách! Ăn”; “Thất văn… Phổng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, kkhi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng… Ngoài kia, đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy không bằng nước bài cao thấp.

Sự đam mê cờ bạc của tên quan phủ với đám nha lại duois quyền diễn ra ngay trên mặt đê, trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã nói lên sự tàn ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Những lá bài tổ tôm có một ma lực lớn đến độ nào mà khiến cho tên quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả mối hiểm nguy, chết chóc đang đe dọa sinh mạng, tài sản của bao người ? Phải ! Hắn ta đâu cần biết những điều đó vì quanh hắn lúc nào cũng có bọn tay sai mịnh nọt, hầu hạ, dạ vâng… Chúng thi nhau tỏ ra cho quan biết là: Mình vào được, nhưng không dám cố ăn kìm, rằng: Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng cố ý nhường cho quan thắng bài liên tiếp để lấy lòng quan lớn. Sau khi quan xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Có người bẩm báo là có khi đê vỡ hắn trả lời thật phũ phàng : Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài.

Thú cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri: Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hôih thì dẫu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ.

Tính cách của tên quan phủ được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ qua các cử chỉ, lời nói thật tiêu biểu. Về cử chỉ : Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc… Về lời nói: Tiếng thầy đề hỏi : Dạ bẩm bốc! Tiếng quan lớn truyền: Ừ, khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đồ đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi, thời ông cahcs cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à ? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: Ù ! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!

Hàng loạt hình ảnh tương phản được tác giả sử dụng rất tài tình trong đoạn văn trên : Tiếng kêu vang trời dậy đất ngoài đê tương phản với thái độ điềm nhiên hưởng lạc của tên quan phủ. Lời nói khe khẽ sợ sệt của người hầu: Bẩm, có khi đê vỡ tương phản với lời gắt của quan cùng cái cau mặt : Mặc kệ! Hình ảnh người nhà quê, mình mẩy lấm láp, áo quần ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời báo tin đê vỡ tương phản với hình ảnh quan lớn đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng : Đê vỡ rồi… thời ông cách cổ chúng mày.

Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ đê, tác giả thể hiện nỗi xót thương và đồng cảm với nỗi khổ của dân chúng :

Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đó ai dám bảo rằng : gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thẳm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch !…

Thiên truyện khép lại bằng cảnh vỡ đê : Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi noi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao siết !

Ở đoạn cuối truyện, tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả, vừa dùng ngôn ngữ biểu cảm đề tài cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng : Cuộc sống lầm than đói khổ của nhân dân không phải chỉ do thiên tai gây nên mà trước hết và trực tiếp hơn cả là do thái độ thờ ơ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ cầm quyền đương thời.

Về nghệ thuật, trong toàn bộ tác phẩm, bên cạnh phép tương phản thì phép tăng cấp đã được nhà văn sử dụng một cách có chủ ý nhằm nêu bật ý nghĩa của tác phẩm và khắc họa rõ nét tính cách nhân vật chính là tên “quan phụ mẫu”.

Phép tăng cấp thể hiện rõ trong việc miêu tae cảnh hộ đê dưới trời mưa mỗi lúc một dồn dập : Nước sông Nhị lên to quá… Aay vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tả trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên giữa tiếng trống, tiếng tù và tiếng người gọi nhau sang hộ đê mỗi lúc một ầm ĩ, náo động.

Phép tăng cấp còn được vận dụng vào việc miêu tả cảnh tên quan phủ cùng đám nha lại đánh bài tổ tôm trong đình. Thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan phủ mỗi lúc một tăng. Mê bài bạc bỏ nhiệm vụ đôn đốc hộ đê đã đành, đến khi có người phu vào báo tin đê vỡ mà vẫn thờ ơ, lại lên giọng quát nạt bọn tay sai rồi quay lại tiếp tục đánh bài và vui sướng reo to : Ù! Thông tôm, chi chi nảy! thì độ say mê cờ bạc quả là làm cho quan lớn mất hết tính người.Nói theo lời bình của nhà văn thì hắn là loại lòng lang dạ thú.

Nhờ khéo léo két hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong miêu tả, kể chuyện nên tác giả truyện ngắn Sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ tàn ác và bày tỉ niềm thương cảm sâu sắc trước cảnh nghìn sâu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn.

Bài làm

Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn được xem là “bông hoa đầu mùa” vì đây là truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ. Dù vẫn còn mang những dấu ấn của văn học trung đại cả về nội dung lẫn hình thức nhưng vấn đề được phản ánh lại có giá trị đến tận hôm nay. Nổi bật ở tác phẩm này chính là sự đối lập nhau của hai giai cấp khi đứng trước vấn đề cấp bách sống còn của nhân dân.

Mở đầu câu chuyện là tình thế vô cùng nguy nan của khúc đê sông Nhị: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Đối với nhân dân ta, đê điều là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình sinh sống và canh tác. Nếu không may vỡ đê, nhà cửa, hoa màu, cây cối và cả con người sẽ chìm trong nước, cuộc sống sẽ bị đe doạ nghiêm trọng. Khúc đê sông ở làng X kia đang đứng trước nguy cơ bị vỡ, đúng là tình thế ngàn cân treo sợi tóc.

Bị đe doạ trực tiếp đến cuộc sống, nhân dân ở đây ra sức hộ đê. Khung cảnh ấy được tác giả miêu tả lại bằng ngòi bút hiện thực hết sức sống động và xót thương : “…kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vá tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật thảm”. Khung cảnh vội vã, khẩn trương hiện ra ngay trước mắt người đọc. Ai cũng nhận thức được tình hình nguy nan ngay lúc này, mỗi người đều dốc hết những gì sức lực mình có để cứu vớt lấy khúc đê này. Hình ảnh nhìn rất đỗi thương tâm.

Không dừng lại ở đó, tình thế của nhân dân được tác giả đẩy lên đến cao trào: “Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời, thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất.”

Qua đoạn văn này, ta đã hiểu được rằng người dân ở đây đã túc trực bao nhiêu lâu qua chứ không phải mỗi hôm nay. Tuy rằng mọi người bảo ban nhau nhanh tay nhưng sức người có hạn, ai cũng đã thấm mệt rồi. Đọc đến đây, cảm giác thương xót đến uất nghẹn. Tình thế này liệu còn được bao nhiêu phần hi vọng nữa. Mọi người đều cảm nhận được tình thế nguy nan, đau thương tang tóc đang cận kề với mỗi người ở làng X này.

Tác giả miêu tả cảnh dân tình đang loay hoay chống chọi với thiên tai một cách cụ thể, tỉ mỉ là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình: “…thế thời nào quan cha mẹ đâu?

Thưa rằng: Đang trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa cũng không việc gì”. Trong khung cảnh hỗn loạn của quan dân, tác giả đã kể chuyện viên quan phụ mẫu mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng điệu đậm chất mỉa mai, châm biếm và phẫn uất. Vị quan phụ mẫu cũng đích thân chỉ đạo việc hộ đê đấy chứ, nhưng không phải là ra cùng với nhân dân mà hắn ta ở trong đình, không gian ấm áp với những món ăn sang trọng, xa hoa: “đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng”. Quan phụ mẫu thì “uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà ngồi dưới đất mà gãi”. Quan phụ mẫu là vậy, nhưng xung quanh hắn ta lại có đủ “thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng” cùng ngồi hầu bài. Cả một hệ thống quan lại ăn bổng lộc của dân nhưng lại mảy may, dửng dưng trước sự sống còn của họ. Khung cảnh ở đây dường như không có chút liên quan nào so với tình hình hộ đê của nhân dân. Trong khi ngoài kia “mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê” thì trong đình, dù chỉ là một cuộc tổ tôm thôi nhưng tên quan kia vẫn duy trì trật tự trên dưới và không khí tôn nghiêm như chốn công đường. Sự đam mê cờ bạc của đám quan lại diễn ra ngay trên mặt đê, ngay trên mạng sống của hàng nghìn con dân đã cho thấy sự độc ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Nỗi đau đẩy lên đến đỉnh điểm khi mà khoảnh khắc đê vỡ- nỗi đau đớn, mất mát của nhân dân lại cũng là lúc ván bài của quan ù to- quan vỗ đùi sung sướng. Còn gì uất hận hơn khi những nỗi đau ấy còn thua cả niềm vui của một ván bài. Khung cảnh vỡ đê được tác giả miêu tả thật chi tiết và chua xót biết bao nhiêu: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp nơi mọi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết”. Dẫu biết rằng cuộc sống nghèo khổ của nhân dân là do thiên tai gây nên nhưng nỗi đau ấy sẽ vơi đi bao nhiêu nếu những kẻ làm quan cha mẹ không thờ ơ với mạng sống của con dân mình như thế.

Câu chuyện khép lại với một kết thúc buồn. Tác giả đã sử dụng tài tình bút pháp miêu tả kết hợp với biểu cảm, cùng với đó là nghệ thuật đối lập tăng cấp đã làm cho câu chuyện đẩy lên được mức cao trào, giúp người đọc nhận ra được rình cảnh khốn cùng của nhân dân và bộ mặt xấu xa, vô lương tâm của đám quan lại. Câu văn biền ngẫu làm cho nhịp truyện cân đối, mang đậm không khí của thời đại.

Với truyện ngắn này, Phạm Duy Tốn đã mở ra một thời kì mới cho văn học nước nhà, đó là sự ra đời của văn học viết bằng chữ Quốc ngữ. Tác phẩm đã đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển của văn học nước nhà thời kì sau này.