- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 9- Kết nối tri thức
- Soạn bài Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Kết nối tri thức- Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 16
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 24 Tập 1- Kết nối tri thức
- Soạn bài Quang Trung đại phá quân Thanh (trang 17)- Kết nối tri thức
- Soạn bài Ta đi tới – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn kể lại một chuyến đi (tham quan một di tích lịch sử, văn hóa)- Kết nối tri thức
- Soạn bài Minh sư – Kết nối tri thức
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 34 Tập 1- Kết nối tri thức
- Soạn bài (Nói và nghe trang 33) Trình bày bài giới thiệu ngắn về một cuốn sách- Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 39 Tập 1- Kết nối tri thức
- Soạn bài Thu điếu – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 42 Tập 1- Kết nối tri thức
- Soạn bài Thiên Trường vãn vọng – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 45- Kết nối tri thức
- Soạn bài Ca Huế trên sông Hương – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật) – Kết nối tri thức
- Phân tích bài thơ bánh trôi nước Hồ Xuân Hương
- Top 10 bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt đường luật)
- Dàn ý Bài văn phân tích một tác phẩm văn học
- Phân tích tác phẩm câu cá mùa thu Nguyễn Khuyến
- Phân tích tác phẩm qua đèo ngang Bà Huyện Thanh Quan
- Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
- Phân tích tác phẩm Nam Quốc Sơn Hà
- Phân tích tác phẩm qua đèo ngang
- Phân tích bài thơ Cảnh Khuya Hồ Chí Minh
- Phân tích tác phẩm bạn đến chơi nhà Nguyễn Khuyến
- Phân tích tác phẩm Tụng giá hoàn kinh sư
- Soạn bài (Nói và nghe trang 53) Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội
- Ý kiến về một vấn đề xã hội: Những giá trị văn hóa truyền thống
- Dàn ý trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Bản sắc văn hóa dân tộc
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: các sản phẩm thủ công truyền thống
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: sử dụng các sản phẩm thủ công truyền thống
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Áo dài trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 55
- Soạn bài Qua Đèo Ngang (trang 56)
- Soạn bài Hịch tướng sĩ (trang 59) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 58 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 39 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 64 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (con người trong mối quan hệ với cộng đồng, đất nước) – Kết nối tri thức
- Vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ ngay nay với tương lai đất nước
- Dàn ý Bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống
- Trách nhiệm và vai trò của bản thân trong việc xây dựng, phát triển đất nước
- Bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống Ý thức cộng đồng
- Nghị luận về một vấn đề đời sống Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
- Học thêm toán ở Phường Hợp Thành Thành Phố Hòa Bình
- Soạn bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – ngắn nhất Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 68 Tập 1 – ngắn nhất Kết nối tri thức
- Soạn bài Nam quốc sơn hà – ngắn nhất Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (con người trong mối quan hệ với cộng đồng, đất nước)
- Soạn bài (Nói và nghe trang 75) Thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi (ý thức trách nhiệm với cộng đồng của học sinh) – ngắn nhất Kết nối tri thức
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 77 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Đọc mở rộng lớp 8 trang 79 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 81 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 84 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Chiếu dời đô (trang 78) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Lai Tân – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 86 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 97 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Vịnh cây vông – Kết nối tri thức
- Soạn bài Tri thức ngữ văn trang 100 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Trưởng giả học làm sang – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 107 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Chùm truyện cười dân gian Việt Nam – Kết nối tri thức
- Soạn bài Chùm ca dao trào phúng – Kết nối tri thức
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 8 trang 113 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại) – Kết nối tri thức
- Soạn bài (Nói và nghe trang 118) Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 8 trang 120 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Đọc mở rộng lớp 8 trang 123 Tập 1 – Kết nối tri thức
- Soạn bài Ôn tập kiến thức (Ôn tập học kì 1) – Kết nối tri thức
- Soạn bài Phiếu học tập số 1 (Ôn tập học kì 1) – Kết nối tri thức
- Tóm tắt Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Top 15 tóm tắt Lá cờ thêu sáu chữ vàng (hay, ngắn nhất) – Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Lá cờ thêu sáu chữ vàng (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Quang Trung đại phá quân Thanh – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức (
- Tóm tắt Quang Trung đại phá quân Thanh – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Quang Trung đại phá quân Thanh – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Ta đi tới (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Ta đi tới – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Soạn bài Viết bài văn kể lại một chuyến đi (tham quan một di tích lịch sử, văn hóa) trang 28
- Top 30 Viết bài văn kể lại một chuyến đi (tham quan một di tích lịch sử, văn hóa)
- Top 20 Viết bài văn kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Đền Hùng
- Top 20 Viết bài văn kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Cố đô Huế
- Top 5 Viết bài văn kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư
- Top 10 Viết bài văn kể lại chuyến đi tham quan di tích lịch sử Thành Cổ Loa
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về một cuốn sách (cuốn truyện lịch sử)
- Top 5 Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách Lá cờ thêu sáu chữ vàng
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách Tiêu Sơn tráng sĩ
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách Đêm hội Long Trì
- Trình bày bài giới thiệu ngắn về cuốn sách An Tư
- Tóm tắt Minh sư – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Minh sư (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Minh sư – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Thu điếu (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Thu điếu – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Thiên trường vãn vọng (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Thiên trường vãn vọng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Ca Huế trên sông Hương – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Ca Huế trên sông Hương (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Ca Huế trên sông Hương – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt đường luật)
- Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt đường luật)
- Phân tích bài thơ Thu ẩm
- Phân tích bài thơ Thu vịnh
- Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà
- Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà
- Phân tích bài thơ Vịnh Khoa Thi Hương
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Múa rối nước
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phong tục gói bánh chưng ngày tết
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Áo dài Việt Nam
- Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: Phở Việt Nam
- Soạn bài Qua đèo ngang (trang 9) – Chân trời sáng tạo
- Tóm tắt Hịch tướng sĩ – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Hịch tướng sĩ (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Hịch tướng sĩ – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Nam quốc sơn hà – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Nam quốc sơn hà (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (con người trong mối quan hệ với cộng đồng, đất nước)
- Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại) – Kết nối tri thức
- Thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi
- Thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi (tổ chức hợp lí nề nếp sinh hoạt của bản thân) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Chiếu dời đô – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
- Bố cục văn bản Lai Tân (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Lai Tân – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Top 30 Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội (ý nghĩa của tiếng cười trong đời sống)
- Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)
- Bố cục văn bản Vịnh cây vông (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Vịnh cây vông – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Trưởng giả học làm sang – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Trưởng giả học làm sang (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Trưởng giả học làm sang – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Tóm tắt Chùm truyện cười dân gian Việt Nam – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Chùm truyện cười dân gian Việt Nam (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Chùm truyện cười dân gian Việt Nam – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Chùm ca dao trào phúng (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Chùm ca dao trào phúng – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại)
- Nghị luận về thói khoe khoang (hay nhất)
- Nghị luận về thói khoác lác (hay nhất)
- Nghị luận về thói nói dóc nói dối (hay nhất)
- Nghị luận về thói quen Trì hoãn công việc (hay nhất)
- Nghị luận về sự tùy tiện khi tham gia giao thông của một số người dân
- Nghị luận về thói kiêu ngạo, thích chơi trội của một bộ phân thanh thiếu niên
- Nghị luận về thói lười nhác hay than vãn (hay nhất)
- Nghị luận về sự ba phải, thiếu chủ kiến khi làm việc nhóm
- Nghị luận về thói ích kỉ (hay nhất)
- Nghị luận về lối sống ảo mà một số người đang theo đuổi
- Trình bày ý kiến về sự thiếu chủ kiến
- Trình bày ý kiến về thói đạo đức giả
- Tóm tắt Giá không có ruồi – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
- Bố cục văn bản Giá không có ruồi (chính xác nhất) – Kết nối tri thức
- Tác giả – tác phẩm: Giá không có ruồi – Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 1
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, nổi tiếng với những tác phẩm giàu tình cảm và thấm đẫm tình người. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Bạn đến chơi nhà”. Bài thơ này đã ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết, vượt qua mọi khó khăn về vật chất để tôn vinh giá trị của tình bạn đích thực.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!
Cụm từ “đã bấy lâu nay” ở đầu bài thơ đã gợi lên cảm xúc nhớ mong, đợi chờ của Nguyễn Khuyến đối với người bạn lâu ngày không gặp. Cách xưng hô “bác” cũng cho thấy mối quan hệ gần gũi, thân mật giữa hai người. Câu thơ đầu như một tiếng reo vui, một lời đón khách đầy cởi mở, chứa đựng niềm hạnh phúc của nhà thơ khi được gặp lại bạn.
Tuy nhiên, hoàn cảnh của Nguyễn Khuyến lúc này lại vô cùng thiếu thốn. Trẻ em trong nhà thì đi vắng, không ai để sai vặt, mua đồ tiếp đãi bạn vì chợ ở quá xa. Nhà thơ liệt kê một loạt các sự vật như “ao sâu – khôn chài cá”, “vườn rộng rào thưa – khó đuổi gà”, “cải chửa ra cây, cà mới nụ”, “bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Thậm chí miếng trầu – thứ quan trọng nhất để mở đầu câu chuyện – cũng không có. Sự thiếu thốn này đã được đẩy lên đến tận cùng.
Dẫu vật chất thiếu thốn, nhưng tinh thần của nhà thơ lại đầy lạc quan và yêu đời. Giọng điệu của bài thơ mang tính hóm hỉnh, cho thấy Nguyễn Khuyến không hề buồn khổ mà ngược lại rất vui vẻ, hạnh phúc khi có bạn đến thăm. Câu thơ cuối như một lời khẳng định cho tình bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến: “Bác đến chơi đây ta với ta”.
Trong văn học Việt Nam, cụm từ “ta với ta” đã từng xuất hiện trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan:
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Tuy nhiên, cách sử dụng cụm từ này trong hai bài thơ lại khác nhau. Trong bài “Qua Đèo Ngang”, đại từ “ta” chỉ một người, chủ thể trữ tình hay chính là tác giả, thể hiện sự cô đơn, lẻ loi trước vũ trụ mênh mông. Còn trong thơ Nguyễn Khuyến, đại từ “ta” thứ nhất là nhà thơ, còn đại từ “ta” thứ hai chỉ người bạn, tạo nên mối quan hệ song hành, gắn bó. “Ta với ta” trong bài thơ của Nguyễn Khuyến đồng nghĩa với “tôi với bác, chúng ta với nhau”. Cuộc sống tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng có bạn lại thấy vui vẻ, hạnh phúc, không hề cô đơn, buồn bã.
Như vậy, “Bác đến chơi nhà” đã khắc họa một tình bạn chân thành thật đáng ngưỡng mộ. Bài thơ không chỉ ca ngợi tình bạn mà còn phản ánh tinh thần lạc quan, yêu đời của Nguyễn Khuyến. Tình bạn tri kỉ vượt qua mọi khó khăn vật chất, mang lại niềm vui và hạnh phúc thật sự cho con người.
Dàn ý Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khuyến (những nét tiêu biểu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác…)
– Giới thiệu về bài thơ “Bạn đến chơi nhà” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
II. Thân bài
1. Câu đầu: Giới thiệu việc bạn đến chơi nhà
– Thời gian: “đã bấy lâu nay”, có nghĩa là rất lâu rồi bạn mới ghé thăm.
– Cách xưng hô: bác, đầy thân mật và gắn bó giữa những người bạn.
– Giọng điệu: cởi mở, chân thành thể hiện thái độ hiếu khách của nhân vật trữ tình.
– Hai vế câu: sóng đôi như một lời reo vui, một lời đón khách đầy cởi mở, chân tình.
=> Câu mở đầu giống như một lời mời đầy chân tình, tự nhiên.
2. 6 câu tiếp: Hoàn cảnh của nhà thơ khi bạn đến thăm nhà
Nhà thơ đã tạo ra một hoàn cảnh đầy éo le khi bạn đến chơi nhà:
– Trẻ thời đi vắng – không có ai để sai đi mua đồ ăn tiếp đãi bạn.
– Chợ thời xa – gợi sự xa xôi, đi chợ rất mất thời gian cũng như không có người ở nhà tiếp bạn.
– Còn trong nhà thì không có gì:
+ Ao sâu – khôn chài cá: khó mà bắt được cá để mời bạn.
+ Cải chửa ra cây, cà mới nụ, bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa – tất cả rau quả, cây trái trong nhà chưa thể ăn được.
+ Miếng trầu – ngay cả thứ quan trọng nhất (Miếng trầu là đầu câu chuyện) cũng không có.
=> Qua những hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa một cuộc sống đạm bạc, thiếu thốn về vật chất.
– Nhưng sự thiếu thốn đó không khiến cho thi sĩ buồn khổ mà còn đầy lạc quan, yêu đời: Thể hiện qua giọng điệu hài hước, hóm hỉnh.
3. Câu cuối: Tình cảm bạn bè thắm thiết
– Bác đến chơi đây: Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng người bạn vẫn trân trọng tình cảm, vậy là đã rất đáng quý rồi.
– “Ta với ta”:
+ Từ “ta” đầu tiên: nhân vật trữ tình – chủ nhà
+ Từ “ta” thứ hai: người bạn – khách
+ Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách.
=> Câu thơ khẳng định được tình cảm tri kỷ của hai người bạn cũng như tâm hồn thấu hiểu sâu sắc, không màng đến của cải vật chất.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Bạn đến chơi nhà”.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 2
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca cuối thế kỷ XIX. Ông để lại nhiều bài thơ ấn tượng, trong đó bài thơ “Bạn đến chơi nhà” thể hiện tình cảm mộc mạc, chân thành của tác giả dành cho người bạn thân của mình. Tình cảm này không dựa trên vật chất mà xuất phát từ tấm lòng chân thành và sự hiểu biết lẫn nhau.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!
Câu thơ đầu tiên “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà” thể hiện sự vui mừng, hạnh phúc của tác giả khi được gặp lại người bạn thân lâu ngày không gặp. Cách xưng hô “bác” cho thấy mối quan hệ gần gũi, thân mật giữa hai người, và câu thơ đầu như một lời chào đón nồng nhiệt.
Dù vậy, hoàn cảnh của Nguyễn Khuyến lúc này lại rất đỗi éo le. Những chi tiết như “trẻ thời đi vắng, chợ thời xa” cho thấy sự thiếu thốn và bất tiện trong việc chuẩn bị đón tiếp bạn. Tác giả tiếp tục liệt kê một loạt các sự vật như “ao sâu nước cả, khôn chài cá,” “vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà,” “cải chửa ra cây, cà mới nụ, bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa,” tất cả đều không đủ để đãi bạn. Ngay cả miếng trầu – thứ quan trọng nhất trong việc tiếp khách – cũng không có. Sự thiếu thốn này được đẩy lên đến tận cùng, nhưng giọng điệu của bài thơ không hề buồn bã mà trái lại còn rất lạc quan, yêu đời.
Bài thơ mang giọng điệu hóm hỉnh, nhẹ nhàng như lời trần tình, giải thích một cách vui vẻ về hoàn cảnh thiếu thốn của tác giả. Dù không có gì để đãi bạn, nhưng tình cảm bạn bè chân thành vẫn là điều quý giá nhất. Câu thơ cuối “Bác đến chơi đây ta với ta” là lời khẳng định cho tình bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến.
Trong văn học Việt Nam, cụm từ “ta với ta” cũng từng xuất hiện trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan:
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Ở đây, “ta với ta” thể hiện sự cô đơn, lẻ loi của tác giả khi chỉ có một mình đối diện với thiên nhiên rộng lớn và nỗi lòng riêng tư. Ngược lại, trong thơ Nguyễn Khuyến, “ta với ta” chỉ hai người nhưng thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó. “Ta với ta” ở đây mang ý nghĩa “tôi với bác, chúng ta với nhau,” tạo nên một không gian thân mật, hòa quyện giữa hai người bạn tri kỉ. Cuộc sống tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng có bạn lại thấy vui vẻ, hạnh phúc, không hề cô đơn.
Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” là một tác phẩm đặc sắc thể hiện tình bạn chân thành, cao quý. Tình bạn trong sáng không dựa trên vật chất, mà dựa trên tình cảm vững chắc và sự hiểu biết lẫn nhau. Bài thơ ca ngợi tình bạn vĩnh cửu, vượt qua mọi khó khăn và thử thách, không bị ảnh hưởng bởi những vật chất tầm thường.
Tác giả đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế, ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa, nhịp thơ nhẹ nhàng như lời tâm sự, thủ thỉ. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được sự giản dị, mộc mạc của làng quê Việt Nam thời xưa và tình cảm chân thành của tác giả dành cho bạn. Tác phẩm thể hiện một tình bạn đáng quý, đáng ngưỡng mộ, góp phần làm phong phú thêm nền thi ca Việt Nam.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 3
Tình bạn luôn là một trong những mối quan hệ đáng trân trọng nhất trong cuộc sống. Bao la nhất là tình cảm của mẹ, mạnh mẽ là tình cảm của cha, thân thiết là tình cảm anh em, và thiêng liêng, bền chặt, lâu dài nhất vẫn là tình bạn.
Nguyễn Khuyến, một nhà thơ giàu tình cảm, đã không ngoại lệ khi nói về tình bạn. Những bài thơ của ông khi đề cập đến tình bạn đều là những minh chứng sâu sắc, thể hiện một tình bạn đáng trân trọng. Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, thành công và nổi bật, đại diện cho thơ Nôm Đường luật Việt Nam.
Bài thơ này là kỉ niệm của Nguyễn Khuyến ở tuổi “xưa nay hiếm”. Nó bày tỏ cảm xúc của ông và người bạn quen nhau chốn quan trường, nay gặp lại nơi thôn quê thanh bình – nơi chôn rau cắt rốn của ông. Từng câu từ trong bài thơ mượt mà, thanh cao, thể hiện tình cảm thắm thiết, gắn bó, mặn mà, và đầy chất nhân văn. Câu thơ mở đầu như một tiếng reo vui, là khởi nguồn cho tất cả tình huống, cảm xúc trong bài.
Gặp lại một người bạn cũ thật quý báu, đặc biệt là khi gặp nhau nơi chân quê. Tình nghĩa đó thật quý giá, sau bao vinh hoa chốn kinh thành, vẫn nhớ về nhau, vẫn tìm thăm trò chuyện. Tuy vậy, bài thơ vẫn có những tình tiết vui vẻ. Hôm nay, bác tới chơi nhà thật quý, nhưng ngặt nỗi hoàn cảnh không thuận tiện: trẻ thì đi vắng, chợ thì xa, ao sâu khó chài cá… một loạt tình huống được liệt kê:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!
Thật trớ trêu và cũng đầy hài hước. Lời thơ tự nhiên, vui vẻ, trong sáng, tạo nên thanh điệu hoạt bát, toát lên sự hiếu khách của chủ nhà trước một vị khách quý. Tuy tất cả đều thiếu vắng, ngay cả miếng trầu cũng không có, nhưng câu cuối cùng lại là sự bất ngờ, đầy lý thú và chứa đựng những cảm xúc dạt dào.
Tình bạn ấy vượt lên trên cả những lễ nghi tầm thường. Ba từ: “ta với ta” là tâm điểm, trọng tâm của bài thơ. Âm điệu bỗng dưng thay đổi, thân mật, ngọt ngào. Nó không giống với ba từ “ta với ta” trong bài “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan. Trong bài “Qua Đèo Ngang,” cụm từ trên thể hiện nỗi trống vắng, hiu quạnh nơi đất khách, quê người, còn trong “Bạn đến chơi nhà,” “ta với ta” là nồng thắm tình cảm bạn bè chân thành, thanh tao, trong sáng. Nhà thơ đã khéo léo lột tả sự nhiệt tình, mến khách trước hoàn cảnh bất ngờ, thiếu thốn. Đằng sau những câu từ dân dã kia là tình cảm chân chất, nhỏ nhẹ mà hóm hỉnh đang hướng về nhau. Tình cảm là điều tác giả mong đợi, khao khát nhất, và chỉ mình nó cũng là đủ để sưởi ấm buổi trò chuyện, gặp mặt.
Bài thơ đã tạo nên một hình ảnh tình bạn không có gì về vật chất, nhưng đầy đủ về tình cảm, để rồi đúc kết một câu rằng: “Bác đến chơi đây, ta với ta” thật đậm đà, sâu sắc. Bài thơ này không chỉ là lời bày tỏ chân tình của tác giả mà còn là một triết lý, một bài học, một định hướng về sự chuẩn mực: tình bạn cao hơn mọi của cải, vật chất.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 4
Tình bạn là một trong những tình cảm đáng trân trọng nhất trong cuộc sống, bao la như tình mẹ, mạnh mẽ như tình cha, và thân thiết như tình anh em. Nguyễn Khuyến, một nhà thơ giàu tình cảm, đã thể hiện sự trân quý ấy qua bài thơ “Bạn đến chơi nhà,” một tác phẩm tiêu biểu trong thơ Nôm Đường luật Việt Nam.
Phân Tích Bài Thơ “Bạn Đến Chơi Nhà” của Nguyễn Khuyến
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ đầy hào hứng: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà.” Đây không chỉ là lời chào thân mật mà còn là sự vui mừng khôn xiết khi gặp lại người bạn cũ sau một thời gian dài xa cách. Từ “đã bấy lâu nay” cho thấy sự mong chờ, hy vọng của nhà thơ khi bạn đến thăm.
Nhưng ngay sau đó, Nguyễn Khuyến liệt kê hàng loạt những khó khăn trong việc tiếp đón bạn: “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Ao sâu nước cả, khôn chài cá, Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.” Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự thiếu thốn về vật chất. Tuy nhiên, lời thơ không hề tỏ ra buồn bã mà ngược lại, mang một giọng điệu hóm hỉnh, vui vẻ.
Tiếp theo, nhà thơ kể thêm những thứ thiếu thốn: “Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.” Những thứ đơn giản, dễ có như rau cải, cà, bầu bí cũng không có sẵn. Điều này càng làm nổi bật sự giản dị, chân chất của cuộc sống nông thôn và cũng là của nhà thơ.
Đỉnh điểm của sự thiếu thốn được thể hiện qua câu: “Đầu trò tiếp khách, trầu không có.” Miếng trầu là đầu câu chuyện, nhưng ngay cả miếng trầu cũng không có. Tuy nhiên, nhà thơ không hề bối rối mà lại thể hiện một tinh thần lạc quan, đầy tình cảm.
Câu thơ cuối cùng “Bác đến chơi đây ta với ta” chính là đỉnh cao của tình bạn chân thành. Nó khẳng định rằng, dù không có gì để tiếp đãi, nhưng tình bạn giữa họ vẫn vẹn nguyên, không gì có thể thay thế được. Đại từ “ta” ở đây không chỉ chỉ riêng nhà thơ mà còn chỉ người bạn, tạo nên một sự gắn bó, hòa quyện giữa hai người bạn tri kỉ.
So Sánh Với Bài Thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan
Cũng là “ta với ta,” nhưng trong “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, đại từ này thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng của tác giả khi đứng trước cảnh đèo Ngang hoang vu:
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Ở đây, “ta với ta” là sự đối diện với chính mình, cảm giác lẻ loi, không có ai để chia sẻ. Ngược lại, trong thơ Nguyễn Khuyến, “ta với ta” thể hiện sự gắn bó, đồng cảm giữa hai người bạn, làm nổi bật sự ấm áp, thân thiết của tình bạn.
Kết Luận
Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến không chỉ là một lời bày tỏ chân tình mà còn là một triết lý, một bài học về tình bạn cao hơn mọi của cải, vật chất. Tình bạn chân thành, không vụ lợi là điều quý giá nhất. Bài thơ đã thành công trong việc thể hiện tình cảm thiêng liêng này qua ngôn ngữ giản dị, hóm hỉnh nhưng sâu sắc, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 5
Từ xưa đến nay, tình bạn luôn là chủ đề được nhắc đến nhiều trong thi ca Việt Nam. Chủ đề viết về tình bạn không phải là một chủ đề mới mẻ nhưng ở mỗi người lại có cách suy nghĩ và cảm nhận về tình bạn theo một lối riêng. Vì vậy, cũng là chủ đề tình bạn nhưng lại có rất nhiều bài thơ với các cung bậc cảm xúc khác nhau, với những bối cảnh và nội dung khác nhau. Trong số các bài thơ nói về tình cảm bạn bè thì bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của tác giả Nguyễn Khuyến là một tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ là tiếng nói chân thành, mộc mạc của nhà thơ gửi gắm tới người bạn của mình. Cho dù hoàn cảnh có nghèo khó, đơn sơ thì tình bạn giữa hai người vẫn chân thành thắm thiết.
Mở đầu bài thơ là những lời kể, lời tâm sự thể hiện niềm vui của tác giả khi bạn tới chơi nhà. Đã bấy lâu nay có nghĩa là đã một thời gian dài trôi qua rồi hôm nay nhà thơ mới có thể gặp lại bạn ngay tại ngôi nhà của mình. Ôi! Thật hạnh phúc biết bao khi sau bao ngày xa cách nhà thơ mới gặp lại người bạn của mình. Có lẽ từ khi nhà thơ cáo quan về quê sống cùng với thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá, ông rất muốn gặp lại những người bạn để cùng trò chuyện, cùng dãi bày tâm sự cho khuây khoả. Cuối cùng, người bạn ấy cũng đã đến, nhà thơ vui mừng tiếp đón bạn của mình và kèm theo đó là những lời trêu đùa vô cùng hóm hỉnh, đáng yêu:
“Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có”
Những câu thơ trên là những lời tâm sự của các giả khi bạn đến chơi nhà nhưng lại không có gì để tiếp đãi bạn. Người trẻ thì đi vắng, chợ thì xa, ao sâu nước lớn chẳng thể giăng lưới bắt cá, vườn rộng thênh thang nên rất khó để đuổi gà. Cải thì còn chưa ra cây, cà thì vừa mới nở nụ, bầu vừa rụng rốn, mướp còn đang ra hoa. Tác giả đang phân trần với người bạn về những thiếu sót của mình. Qua đó bạn đọc cũng có thể cảm nhận được cuộc sống đạm bạc, giản dị, bình thường, luôn gắn bó với thiên nhiên của cụ Nguyễn Khuyến. Lời thơ nhịp nhàng với nhịp điệu 4/3 khiến cho đoạn thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển, dễ đi sâu vào lòng người. Đoạn thơ còn cho ta thấy tác giả là một người có tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, tha thiết gắn bó với thiên nhiên xanh mát.
“Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta”
Tưởng chừng những sự thiếu thốn ở trên đã là quá đủ rồi nhưng khi đọc đến đây ta còn thấy rằng nhà thơ quả là người thật vui tính, biết trêu đùa người khác. Bạn đến chơi nhà mà miếng trầu cũng không có để cho bạn. Đây là sự thiếu sót của tác giả hay chỉ là những lời nói vui đùa với người bạn của mình? Điều quan trọng mà nhà thơ muốn nhấn mạnh đó chính là câu thơ cuối. Dù nghèo về vật chất nhưng tình cảm bạn bè lúc nào cũng đong đầy, chan chứa. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở tình cảm yêu thương chân thật chứ không phải là những thứ vật chất tầm thường. Nếu như người bạn của tác giả là một người ưa vinh hoa phú quý, ưa cuộc sống giàu sang thì chắc chắn sẽ không lặn lội tới miền quê nghèo để thăm nhà thơ.
Ở câu thơ cuối, ta bắt gặp một cụm từ rất quen thuộc “ta với ta”. Cụm từ này đã xuất hiện trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, nhưng ý trong câu thơ lại là chỉ sự đơn độc, lẻ bóng. Còn “ta với ta” trong câu thơ của Nguyễn Khuyến dùng để chỉ nhà thơ và người bạn của mình, tuy hai mà một, tình cảm gắn bó hòa quyện không gì có thể chia cắt được.
Bạn đến chơi nhà là một bài thơ hay và ý nghĩa về tình cảm bạn bè của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Tình bạn luôn là thứ quý giá nhất, vượt qua giới hạn về thời gian, không gian và tiền bạc vật chất. Bài thơ thể hiện sự thành công của tác giả trong bút pháp trào phúng. Ngôn ngữ giản dị, cách gieo vần đặc sắc, dễ nghe, dễ thuộc. Ông xứng đáng được coi là nhà thơ của làng quê Việt Nam.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 6
Thơ Nguyễn Khuyến chẳng có mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước tình cảnh đất nước đau thương, trước thói đời éo le, bạc bẽo. Nhất là từ khi cáo quan về sống ẩn dật ở quê nhà thì nỗi buồn ấy trong thơ ông càng sâu, càng đậm. Tuy vậy nhưng bài Bạn đến chơi nhà lại là nốt vui bất chợt làm bừng sáng cái thông minh, dí dỏm vốn có trong tính cách cụ Tam Nguyên.
Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn già khăng khít, keo sơn, vượt qua mọi ràng buộc của những nghi thức tầm thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp, chân thành. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng không theo cấu trúc 4 phần (đề, thực, luận, kết), mỗi phần hai câu như thường thấy.
Ở bài này, Nguyễn Khuyến chỉ sử dụng có một câu làm câu đề, câu thứ hai đã chuyển sang phần thực. Giữa phần thực và phần luận lại không có ranh giới rõ rệt. Hai câu bảy và tám thì câu bảy gắn với phần luận, chỉ có câu 8 là phần kết. Sự phá cách này tạo nên nét độc đáo trong cấu trúc bài thơ, đồng thời chứng tỏ khả năng sáng tạo của nhà thơ.
Đã bấy lâu nay bác tới nhà. Câu mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp lại nhau. Tuổi già là tuổi người ta thường cảm thấy cô đơn nên khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Chính vì thế nên khi được bạn đến thăm, nhà thơ thực sự vui mừng.
Ông gọi bạn bằng bác. Cách gọi dân dã, thân tình song cũng rất nể trọng, thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hằng ngày ấy sẽ là tiền đề cho sự giãi bày tiếp sau đó: Đã lâu rồi, nay mới có dịp bác quá bộ tới chơi nhà, thật là quý hóa. Vậy mà… thôi thì cứ tình thực mà nói, mong bác hiểu mà vui lòng đại xá cho!
Sau khi Nguyễn Khuyến rũ áo từ quan, về ở chốn quê nghèo chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa mà vẫn có bạn tìm tới thăm thì hẳn người ấy phải là tri kỉ; bởi thói đời giàu thời tìm đến, khó thì lui. Xúc động thật sự, nhà thơ nhân đó lấy cái giàu có, quý giá của tình bạn để khỏa lấp cái nghèo nàn vật chất trong cuộc sống của mình.
Theo phép xã giao, khi khách đến chơi, trước hết chủ nhà phải có nước có trầu tiếp khách. Bạn thân ở nơi xa tới, lâu ngày mới gặp thì nhất thiết phải mời cơm, mời rượu. Ở chốn phố phường còn có quán xá chứ ở vùng quê Nguyễn Khuyến thì kiếm đâu ra? Cái hay của bài thơ bắt đầu từ ý này: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Nhà thơ phân trần với khách về sự tiếp đãi không thể chu đáo của mình. Vừa mới tay bắt mặt mừng mà lại giãi bày với ý: “Nhà vắng người sai bảo, chợ ở xa, tôi thì già yếu không đi được”, liệu có làm mất lòng nhau? Nhưng bạn già chắc sẽ thông cảm vì lí do chủ nhà đưa ra nghe chừng đúng cả. Mọi thứ ở nhà tuy sẵn nhưng ngặt nỗi:
“Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”
Hiểu theo bề nổi của chữ nghĩa, nhà thơ muốn thanh minh với bạn: Cá thì nhiều đấy, nhưng ao sâu nước cả. Gà không thiếu nhưng vườn rộng rào thưa. Cải, cà, bầu, mướp thì đang ở độ chửa ra cây, còn mới nụ, vừa rụng rốn, đương hoa. Nghĩa là toàn ở độ dở dang, sắp sửa, chưa dùng được. Vậy là bữa cơm đãi khách với đầy đủ cá thịt hay đạm bạc rau dưa đều không thể có.
Thôi thì ta nói chuyện với nhau bằng điếu thuốc, chén nước, miếng trầu vậy. Nhưng giờ đến trầu thì đã hết tự bao giờ: Đầu trò tiếp khách trầu không có, mà xưa nay miếng trầu là đầu câu chuyện. Người đọc như hình dung ra rõ ràng cái sự loay hoay, lúng túng thật dễ thương của vị đại quan xưa, nay đã thành ông già dân dã chốn quê mùa.
Nhưng xét kĩ thì chủ nhà không nghèo, ngược lại, ông là người giàu có. Câu thơ toàn nói đến cái không nhưng lại hàm chứa cái có. Cái nghèo vật chất trong hiện tại được thi vị hóa như là sự giàu có trong tương lai. Có thể những thứ cá, gà, cải, cà, bầu, mướp đều chẳng thiếu và nhà thơ đã tiếp đãi bạn rất chu tất còn nội dung bài thơ chỉ là cách giới thiệu độc đáo của cụ Tam Nguyên với bạn về cuộc sống thanh đạm của mình sau khi từ quan chăng?
Cách nói của nhà thơ là cố làm ra vẻ giàu có, dư dả nhưng thực ra ông rất nghèo và cái nghèo ấy dễ gì che giấu được! Bạn biết ta nghèo, lại ở một nơi xa xôi hẻo lánh mà vẫn tìm đến thăm ta, điều đó còn gì quý giá bằng! Tuy vậy, ẩn trong lời nói khiêm nhường của Nguyễn Khuyến là sự tự hào về cảnh sống thanh bần của mình. Ta tuy nghèo thật nhưng dễ gì giàu sang đổi được cái nghèo ấy! Trong đoạn thơ trên thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, thâm Thúy của bậc đại nho.
Bác đến chơi đây ta với ta là một câu kết hay, là linh hồn của bài thơ. Ta với ta nghĩa là một tấm lòng đến với một tấm lòng; kẻ tri âm đến với người tri kỉ. Vậy thì tất cả những lễ nghi kia đều là tầm thường, vô nghĩa. Chủ và khách có chung một tình cảm thắm thiết thanh cao, đó là cái quý giá không vật chất nào sánh được. Ba tiếng ta với ta gợi cảm xúc mừng vui, thân mật. Bạn bè xa cách đã lâu, nay vượt đường xa dặm thẳm, vượt cái yếu đuối của tuổi già để đến thăm nhau thì thật là quý hóa.
Đáng quý hơn nữa là bác với tôi, ta cùng lánh đục tìm trong, lui về vui thú điền viên để giữ trọn hai chữ thiên lương. Sự gần gũi, tương đắc về mặt tâm hồn đã gắn bó chủ và khách làm một. Những điều câu nệ, khách khí đã bị xóa nhòa. Chỉ còn lại niềm vui và sự chân thành bao trùm tất cả. Tình bạn ấy đã vượt lên trên những nghi thức tiếp đãi bình thường. Bạn đến chơi nhà không phải vì mâm cao cỗ đầy mà để được gặp nhau; được hàn huyên tâm sự cho thỏa nỗi khao khát nhớ mong.
Câu thơ đã thể hiện cách sử dụng từ ngữ tài tình của Nguyễn Khuyến. Đáng chú ý nhất là cụm từ ta với ta. Đại từ ta trong tiếng Việt vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều. Nguyễn Khuyến dùng cả hai nghĩa: Ta với ta tuy hai nhưng là một. Từ với gắn hai từ ta lại. Bạn và nhà thơ ngồi bên nhau thủ thỉ tâm tình, hai người hòa thành một. Quả là không gì có thể đánh đổi được tình bạn Thủy chung giữa hai ta.
Bài thơ Bạn đến chơi nhà là tấm lòng của nhà thơ và cũng là bức tranh phong cảnh nông thôn bình dị tràn đầy sức sống. Khu vườn với luống cà, giàn mướp; mặt ao sóng gợn, tiếng gà xao xác trưa hè… là hiện thân của mảnh hồn quê mộc mạc, đậm đà, sâu lắng. Màu xanh trong của nước ao, màu xanh mơn mởn của ngồng cải, màu tím hoa cà, màu vàng tươi hoa mướp… loại nào cũng đang độ tươi non, làm vui mắt và ấm lòng người.
Những sự vật tưởng như tầm thường ấy thực ra có sức an ủi rất lớn đối với một tâm hồn mang nặng nỗi đau đời của nhà thơ. Được đón bạn đến chơi nhà trong khung cảnh rạo rực sức sống ấy, chắc hẳn niềm vui của cụ Tam Nguyên cũng tăng lên gấp bội.
Bài thơ nói về một tình bạn trong sáng, đẹp đẽ. Giọng thơ tự nhiên như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân quê mùa, chất phác, ấy vậy nhưng nó vẫn bộc lộ rõ nét tài hoa của ngòi bút Nguyễn Khuyến trong tả cảnh, tả tình. Cảnh, tình đan xen, hòa hợp, bổ sung cho nhau để tạo nên một bức tranh quê trong sáng, tươi mát và ấm áp tình người.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 7
Trong văn chương, tình bạn được xem là chủ đề gợi nhiều cảm hứng đối với các thi nhân. Ta hơn một lần xúc động trước tình bạn tri kỉ giữa Bá Nha, Tử Kì cùng nhau hòa hợp trong tiếng nhạc, tình cảm gắn bó thủy chung giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong cảnh đưa tiễn đầy nước mắt ở lầu Hoàng Hạc. Văn học trung đại Việt Nam cũng có những mối tình tri âm như thế, trong đó phải kể đến tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến là bài thơ đặc sắc đầy hóm hỉnh nhưng chứa đựng tình bạn đậm đà, thắm thiết.
Nguyễn Khuyến quê ở Hà Nam, được mệnh danh “Tam nguyên yên đổ” và là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Bài thơ “bạn đến chơi nhà” được sáng tác sau khi Nguyễn Khuyến về quê ở ẩn ca ngợi tình bạn đậm đà, trong sáng, chân thành vượt lên trên mọi thứ vật chất tầm thường của thi nhân với người bạn của mình. Mở đầu bài thơ là lời reo vui chào mời đầy phấn khởi, hồ hởi của tác giả khi bạn đến thăm nhà: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà”
Trạng ngữ chỉ thời gian “đã bấy lâu nay” để nói về khoảng thời gian dài nhà thơ không được gặp lại bạn, nó như một tiếng reo vui để khỏa lấp nỗi nhớ nhung sau bao lâu xa cách. Đại từ xưng hô “bác” giản dị tự nhiên thể hiện thái độ thân mật, gần gũi, niềm nở của nhà thơ đối với bạn của mình. Người tri kỉ được gặp lại có ai không vui mừng khôn xiết, chỉ một câu chào tự nhiên thôi cũng đủ cho thấy niềm sung sướng , hạnh phúc vô hạn của Nguyễn Khuyến khi được bạn đến thăm.
Sau lời chào mời thân thiết ấy, ngỡ rằng sẽ là mâm cao cỗ đầy, không ít nhất cũng sẽ là vài ba món thịnh soạn để đón khách quý nhưng thực tế lại không có gì. Chủ nhà bỗng chuyển sang giọng lúng túng khi nói về gia cảnh mình:
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!”
Với cách nói đầy hóm hỉnh, Nguyễn Khuyến đã cường điệu hóa những cái không có: Ông cũng muốn có một mâm cơm thịnh soạn để tiếp đón bạn nhưng chẳng may trẻ không có nhà, không có ai để sai bảo mà chợ thì ở xa ông không thể tự đến đó. Lúc này, nhà chủ lại bắt đầu nghĩ đến những món ăn cây nhà lá vườn sẵn có để thiết đãi bạn, nhưng trớ trêu thay nhà có cá nhưng ao sâu nước lớn không thể câu được, nhà có gà nhưng vườn rộng rào thưa không thể đuổi bắt, có cải, có cà, có bầu, có mướp nhưng tất cả đều còn mới mọc.
Nhà thơ rất quý mến bạn, muốn tiếp đón bạn chu đáo, thịnh soạn nhưng hoàn cảnh éo le của thực tại không cho phép ông làm điều đó. Đến cả miếng trầu, nét đẹp văn hóa của người Việt để khởi đầu cho mọi câu chuyện mà nhà chủ cũng không có nốt, ý thơ mở rộng như khẳng định sự tuyệt đối cái không có.
Qua cách nói dí dỏm của nhà thơ, có vẻ như gia đình ông có rất nhiều thứ nhưng thực chất lại chẳng có gì. Cách nói ấy vừa khéo léo trình bày hoàn cảnh của mình để bạn có thể hiểu và cảm thông, cũng vừa là cách để nhà thơ thi vị hóa cái nghèo, cái khó của mình, ông bằng lòng với cuộc sống ấy, tuy khổ cực nhưng thanh thản, an nhiên.
Ông luôn yêu đời và trân trọng cuộc sống ấy. Với nhịp thơ 4/3 tạo âm hưởng nhịp nhàng, khoan thai cùng phép liệt kê, đối lập, các tính từ, từ phủ định đoạn thơ đã cho thấy cuộc sống nghèo mà sang của một bậc ẩn sĩ, đồng thời cho thấy sự vui tươi, hóm hỉnh của một cuộc thiết đãi bạn hiền thiếu thốn vật chất nhưng chan chứa tình cảm chân thành, thắm thiết. Qua đoạn thơ, bức tranh làng quê Việt Nam hiện lên thật đẹp, thật thanh bình, giản dị, gần gũi.
Đến câu thơ cuối, cảm xúc như lắng lại, mọi thứ vật chất lùi về chỉ còn tình bạn tri kỉ chân thành sâu sắc lên ngôi: “Bác đến chơi đây ta với ta”. Một lần nữa từ “bác” lại xuất hiện thể hiện niềm trân trọng, quý mến của tác giả đối với vị khách đặc biệt của mình.
Bác từ phương xa tới đây, còn gì quý hơn, bác đến với tôi bằng tấm chân tình, bằng lòng tri âm chứ đâu phải vì vật chất. Chính vì thế tình bạn giữa nhà thơ và bạn hiền càng trở nên cao đẹp và thiêng liêng, tình bạn vượt lên trên mọi thứ vật chất tầm thường. Chữ “ta” được nhắc lại hai lần để nói về tôi, về bác, về hai chúng ta. Hai người khác nhau nhưng có trái tim và tâm hồn cùng đồng điệu, hòa hợp như không còn khoảng cách, hai ta mà là một. Câu thơ như một tiếng cười xòa hồn hậu để khẳng định tình bạn trong sáng, đậm đà của hai người tri kỉ.
Trong bài thơ “bạn đến chơi nhà” bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, giọng thơ hóm hỉnh nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được về một tình bạn đẹp đáng quý, đáng trọng trong thi ca Việt Nam. Tình bạn như thế cho đến thời đại ngày nay vẫn là một tấm gương sáng, một bài học quý để cho chúng ta noi theo.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 8
Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta chẳng thấy mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước cảnh đất nước thương đau, trước thói đời lắm nỗi éo le. Nỗi buồn ấy càng sâu càng đậm từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Nhưng ta niềm vui bất chợt khi đọc Bạn đến chơi nhà. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn bằng hữu tâm giao cao quý vượt lên mọi nghi thức đời thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp chân thành.
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!”
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng sự phát triển của ý thơ khá bất ngờ không theo cấu trúc (đề, thực, luận, kết) thường thấy ở thơ Đường. Có lẽ đây cũng là một điều rất đặc biệt như chính tình bạn của họ.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà. Câu thơ mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp nhau. Tuổi già thường cảm thấy cô đơn nên người ta khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Vì vậy khi có bạn đến thăm thì quá đỗi vui mừng. Cách xưng hô thân mật bằng bác, cách gọi thân mật dân dã gợi sự nể trọng cũng như thân tình thể hiện sự gắn bó trọng tình giữa chủ và khách.
Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hàng ngày: đã lâu rồi nay có dịp bác đến chơi nhà, thật là vui quá. Tôi, bác chẳng xa lạ gì thôi thì mong bác thông cảm cho! Ngày còn ở chốn quan trường việc có bạn tới thăm là lẽ thường nhưng giờ ông đã từ quan, có bạn đến tận nhà thăm thì hẳn phải là thân thiết lắm bởi thói đời: giàu thời tìm đến, khó thời ị lui. Vui sướng, xúc động nhà thơ đã lấy sự sung túc, giàu có của tình bạn thay vào cái túng thiếu về vật chất để tiếp bạn.
Thông thường theo phép tắc xã giao khi bạn đến nhà dù là thân hay sơ thì trước hết trầu nước sau là cơm rượu đãi bạn. Nhưng sau lời chào bạn Nguyễn Khuyến nhắc đến một loạt những khó khăn của gia đình. Nhà thơ như đang phân trần với bạn về sự tiếp đãi chưa chu đáo của mình. Phần thực, luận tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói. Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân. Có ao và có cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng … Bức tranh vườn hiện lên sống động vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch ấm áp cây đời và tình người. Ta cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn mình ra thăm vườn cây, ao cá và hơn thế mong bạn cảm thông với cuộc sống của mình chăng?
Các từ (sâu, cả, rộng, thưa), các trạng từ chỉ tình trạng (khôn, khó), các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đương) hô ứng bổ trợ cho nhau một cách thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ này biểu hiện một cuộc sống dung dị, tự nhiên gần gũi đáng yêu.
Dân gian có câu: Đầu trò tiếp khách, trầu không có. Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ lại đến mức ấy ư? Nhà thơ đã cường điệu hóa cái nghèo của mình. Một ông quan to triều Nguyễn về ở ẩn, với một cơ ngơi chín sào tư thố là nơi ở thì không thể “miếng trầu” cũng không có. Rõ ràng đây là lời bông đùa hóm hỉnh với bạn. Đồng thời để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của giặc Pháp, lui về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương.
Những vật chất bình thường nhất mang ra tiếp bạn đều không có, mà thay vào đó là tình cảm chân thành tha thiết. Tình bạn của họ được vun đắp, dựng xây trên cơ sở của tình cảm, lòng yêu thương kính trọng. Vật chất là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Thật xúc động khi đọc những dòng thơ thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến với bạn:
“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước
Bác với tôi hôm sớm cùng nhau…”
(Khóc Dương Khuê, Nguyễn Khuyến)
Tình cảm của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật cảm động, họ tri kỉ tri âm với nhau cũng xuất phát từ đó. Đúng vậy, trong bài thơ này những nghi thức xã giao vật chất dần bị bóc để lộ ra hạt ngọc lung linh – ấy là tâm hồn, tình cảm cao quý của họ.
Bác đến chơi đây, ta với ta. Câu kết là sự “bùng nổ” ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị mà chỉ cần có một tấm lòng. Lần thứ hai chữ bác xuất hiện, bác không quản ngại đường xá xa xôi đến thăm bạn thì thật đáng quý. Tình bạn là trên hết, không gì mua được.
Mong tiếp bạn bằng những thứ thật sang, thật bất ngờ nhưng rồi chỉ có ta với ta. Họ hiểu nhau, họ tuy hai nhưng là một, cái đồng điệu ấy chính là sự xem thường vật chất, trọng tình cảm, trọng tình bằng hữu. Tôi và bác chỉ cần gặp nhau để trò chuyện tâm sự là đã đủ. Tình cảm của họ bộc lộ một cách trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng.
Ta với ta trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là sự bắt gặp đối diện với chính mình, chính tâm trạng cô đơn u hoài của nữ sĩ. Còn ta với ta trong bài thơ này là sự bắt gặp của hai tâm hồn, hai con người. Có một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về bạn khi đọc ta mới thấy hết được ý vị của nó:
“Từ trước bảng vàng nhà có sẵn
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi”
(Gửi bác Châu Cầu)
Bài thơ Bạn đến chơi nhà là bài thơ hay viết về tình bạn, một tình bạn thắm thiết keo sơn. Một tâm hồn thanh bạch cao quý của hai con người hòa là một, một cách sống thanh cao trọng tình trọng nghĩa. Tình bạn của họ thật cảm động chứ không như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng lên án Còn bạc còn tiền còn đệ tử – Hết cơm hết rượu hết ông tôi. Tình bạn cao quý ấy còn chói ngời mãi, là điển hình cho tình bằng hữu xưa nay.
Khép lại bài thơ, ai ai cũng xúc động trước tình bạn cao quý của họ. Lời thơ dung dị, ý thơ chất chứa bao tình cảm thân thương trìu mến tạo nên nét đặc sắc của bài thơ.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 9
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học trung đại. “Bạn đến chơi nhà” là bài thơ hay cho thấy tình bạn tri kỉ của nhà thơ.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà, “Đã bấy lâu nay” là một khoảng thời gian dài mà khi nói hẳn nhà thơ đã tính đến lần đến trước. “Bác” là cách xưng hô vừa thân thiết, vừa trân trọng, chẳng hạn: “Bác già tôi cũng già rồi. Biết thôi, thôi thế, thì thôi mới là. Đường đi lại tuổi già thêm nhác.
Những câu thơ tiếp theo báo hiệu tình huống khó xử, nhưng cũng thể hiện tấm lòng đối với bạn: bạn lâu mới đến thăm thì việc đầu tiên là chuyện chết bạn thật nhiều, thật ngon. Bốn câu thơ tiếp theo, câu nào cũng nghĩ đến cái thứ có thể tiếp bạn mà không được, gần như một cuộc tổng duyệt các thứ sản vật có trong nhà:
“Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.”
Cái thú của mấy câu thơ này là tỏ cái gì cũng có mà không có gì, không có gì mà cũng có. Có gà, có cá, có cải, có cà, có bầu, có mướp, có ao, có vườn, có thể nói là cũng phong lưu, khá giả đấy chứ! Có người nhận xét các thứ ấy có gợi lên một không khí điền viên, quê kiểng rất thân thiết, đầm ấm. Nhưng có mà chẳng có gì, bởi vì không đúng lúc, đúng thời vụ. Đến cả miếng trầu là đầu câu chuyện mà nhà thơ cũng không có. Cái này thì tác giả thừa nhận là không có, kể cũng lạ:
Đầu trò tiếp khách, trầu không có. Cái sự “không có” của tác giả đến đây là cao trào, ơ làng quê, cây cau, dây trầu, miếng vôi làm sao không có, huống nữa, lại là đôi với một ông “đi đâu cũng dở nhưng cuối cùng chày” như Nguyễn Khuyến, thì làm sao mà không có được? Nhưng tất cả cái sự không ấy được cường điệu lên cực đại để nói lên cái thứ luôn có sẵn để dành cho bạn – ấy là tấm lòng:
Bác đến chơi đây, ta với ta! “Ta với ta” hiểu nhau, “ta với ta” quý nhau, “ta với ta” là tất cả! Phải chăng ở đây có sự tác động của nguyên tắc hữu cơ vô tương tác: đẩy cái “vô” (không) cho đến tận cùng để “hữu” (có) hiện lên với tất cả sức nặng? Phải nói rằng khi đẩy cái “vô” lên tận cùng thì bài thơ đã ở vào thế chông chênh. Cái gì cũng không có thì lấy gì để tỏ tình bạn? Câu kết bất ngờ đã cân lại tất cả, lặp lại thế cân bằng.
Câu kết vì vậy có một sức nặng tình cảm rất lớn. Bài thơ tự nhiên làm ta liên tưởng tới bài thơ Ngắm trăng trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh sau này:
“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”
Nhà thơ Hồ Chí Minh cũng gặp một cảnh tương tự: bạn trăng đã đến, nhưng “Trong tù không rượu cũng không hoa”, biết làm sao đây? Giải pháp cuối cùng là tấm lòng đối với tấm lòng: người ngắm trăng, trăng ngắm người, vượt lên mọi thiếu thốn. Thế mới biết giải pháp của Nguyễn Khuyến cũng là giải pháp muôn thuở của con người. Ví dụ mâm cơm thịt cá ê hề, mà tình cảm lạnh nhạt, tiếp đón chiếu lệ, thì phỏng còn có thú vị gì?
Trong bài thơ này, nói là chẳng có gì, nhưng tấm lòng muốn đãi bạn tất cả đã hiện lên rất rõ. Nhưng đây là một bài thơ đùa vui, người đọc chớ quá thật thà, nghĩ rằng nhà thơ để bạn ngồi nói chuyện suông rồi tiễn bạn ra về. Cũng đừng tưởng rằng nhà thơ Nguyễn Khuyến rất giàu có.
Rất có thể bài thơ là lời đùa vui, một chút cường điệu duyên dáng trước bữa cơm không được thịnh soạn như ý, cũng có thể là cách để nhà thơ bộc bạch tấm lòng thành. Còn lại một điều lạ là trong các thứ được nghĩ đến để mời bạn ở đây lại không thấy có rượu, một thứ mà từ Đỗ Phủ đến Hồ Chí Minh, và cả Nguyễn Khuyến trong các trường hợp khác không thể không nhắc đến “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mua!” (Khóc Dương Khuê),
“Rượu tiếng rằng hay…” (Thu ẩm). Nhưng ai cũng biết, một bài thơ tám câu không phải cái gì cũng nói hết được, và chúng ta, những người đọc, không phải cái gì cũng hiểu hết được. Biết đâu trong mâm, rượu đã sẵn rồi! Đặc sắc của bài thơ diễn đạt như lời nói thường, lời khẩu ngữ: “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà. Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa… Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa… Bác đến chơi đây, ta với ta”.
Lời thơ tự nhiên, tưởng chừng như không có chút dụng công nào. Đặc sắc thứ hai là tạo một thế chênh vênh, sáu câu nói tới cái không có, để rồi dùng hai câu kết bất ngờ cân bằng lại tất cả, biến những câu thơ về cái không có trở thành có nghĩa, không quan trọng, và đề cao cái “ta với ta” ấm áp, thân tình.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 10
Nguyễn Khuyến là vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình. Ông thường viết về cuộc sống bình dị mà thơ mộng nơi thôn quê với những chủ đề vô cùng thân thuộc. Tác phẩm “Bạn đến chơi nhà” của ông cũng giống như một dòng sông êm đềm, lững lờ trôi nơi thôn quê ấy để rồi in đậm dấu ấn trong lòng người đọc tự lúc nào không hay.
Bài thơ vừa thể hiện tình bằng hữu sâu đậm của nhà thơ vừa chứa đựng một quan niệm mới mẻ: tình bạn không biểu hiện ở những vật chất tầm thường mà chính sự chân thành, tri kỉ trong tình bạn mới là đáng quý. Quan điểm ấy được tác giả gửi gắm trong cả nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm.
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà,” Trước hết, câu thơ đầu đã khái quát được hoàn cảnh đón tiếp người bạn lâu ngày đến chơi nhà. Tác giả đã thể hiện niềm vui, sự niềm nở đón tiếp vị khách quý đến nhà. Thêm vào đó, cách gọi “bác” của nhà thơ toát lên sự gần gũi, gắn bó, như họ hàng ruột thịt trong nhà. Tuy nhiên sáu câu thơ tiếp theo lại nói lên tâm trạng bối rối, khó xử của nhà thơ khi muốn thiết đãi bạn thật chu đáo nhưng hoàn cảnh lại hết sức éo le.
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!”
Ông muốn tiếp đãi bạn thật thịnh soạn nhưng “trẻ” thì không có nhà để sai bảo, “chợ’ thì lại ở xa, nghĩ về cây nhà lá vườn thì “khôn chài cá”, “khó đuổi gà”, “cải” chửa ra cây, “cà” vẫn còn nụ, “bầu vừa rụng rốn”, “mướp” còn hoa. Từ sơn hào hải vị đến dân dã thôn quê nhà thơ đều muốn cho bạn thưởng thức, chỉ là không thể thực hiện được.
Tiếp đó Nguyễn Khuyến muốn tiếp bạn bằng phong tục thường ngày, bằng lễ nghi tiếp khách thông thường “miếng trầu mở đầu câu chuyện”, nhưng cũng không thành. Chính trong hoàn cảnh éo le này một tình bạn chân thật nhất, sâu sắc nhất mới được tỏa sáng:
“Bác đến chơi đây ta với ta.” Câu thơ như một tiếng cười xòa đùa vui bật lên của nhà thơ. Khác với hình ảnh “ta với ta” trong bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan: “Một mảnh tình riêng ta với ta”.
Chỉ một người, một tâm trạng, thể hiện sự cô đơn khi đối diện với chính mình và cũng là sự nhỏ bé trước thiên nhiên mênh mông nơi đất khách. “Ta với ta” ở bài thơ của Nguyễn Khuyến thể hiện sự hòa hợp, gắn bó, đồng nhất giữa hai người bạn, hai nhưng là một.
Đồng thời cũng ngầm khẳng định tình bạn giữa hai người đã không còn khoảng cách, không còn sự e dè, ngại ngùng. Một tình bạn chân chính không phải là đề cao ở vật chất mà sự chân thành, tri âm tri kỉ mới là chân lí.
Quan niệm về tình bạn của Nguyễn Khuyến cũng đồng điệu với quan niệm mà Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn phê phán trong bài thơ “Thói đời”:
“Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi”
Tiếp theo đó, tuy tác giả dùng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bó buộc, khuôn mẫu nhưng kết hợp cùng nhịp thơ 4/3 và lời thơ giản dị, bài thơ không hề cứng ngắc mà rất nhẹ nhàng giống như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Hơn nữa bút pháp trào phúng, phép đối, nói quá làm cho tác phẩm giống như lời tâm tình, lời tiếp chuyện đùa vui, hóm hỉnh của tác giả và người bạn của mình.
Đồng thời, việc khéo léo đưa các hình ảnh “vườn rộng rào thưa”, “ao sâu nước cả”, “cải chửa ra cây”…vừa vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh miền quê yên ả, ấm no, vừa cho thấy cái tài của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong việc thơ ca hóa những sự vật dân dã. Chính những yếu tố ấy cũng đã góp phần tạo nên sự thành công của bài thơ, góp phần bộc lộ sự trân trọng, nâng niu của tác giả với một tình bạn đẹp tuổi xế chiều.
Tình bạn là một đề tài không mới, nhưng thông qua tài năng cùng ngôn ngữ rất riêng của mình, tác giả đã chắp bút nên một bài thơ đầy cảm xúc, để lại ấn tượng sâu đậm về tình bạn trong lòng người đọc. Một tình bạn đã bỏ qua mọi vật chất tầm thường, thanh cao, sâu đậm. Qua đó thể hiện con người ngay thẳng, chân thật, coi trọng tình nghĩa của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 11
Có lẽ tình bạn là một tình cảm giữa những người dưng sâu nặng và đáng quý tương đương với tình yêu trai gái. Vì vậy mà các thi nhân xưa đã nhiều lần đưa tình bạn thiêng liêng vào chính những tác phẩm của mình. Nổi bật trong đó là bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của nhà thơ Nguyễn Khuyến, một bài thơ được sáng tác về người bạn Dương Khuê khi ông qua đời. Tình bạn ấy được thể hiện thật thân thiết và đáng trân trọng biết mấy.
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!”
Lời chào hỏi tự nhiên thân mật nay đã biến thành câu thơ “Đã bấy lâu nay bác tới nhà”. Ta có thể thấy rõ niềm hân hoan vui sướng khi gặp lại người bạn hiền thân thiết của tác giả. Niềm vui ấy như không thể nào kìm nén dù chỉ một phút giây. Cách xưng hô bác- tôi cho thấy sự thân thiết, tự nhiên giữa những người bạn lâu năm lâu ngày gặp lại. Câu thơ đầu và cũng là lời chào đầu đã thể hiện đầy đủ sự quý hóa và sự vui mừng khôn xiết của tác giả khi người bạn hiền ghé chơi nhà. Nhưng ngay sau lời chào đón là sự lúng túng bất ngờ của người chủ nhà.
Cách nói thật hóm hỉnh, hài hước. Người xưa thường tiếp đãi khách quý bằng đồ cây nhà lá vườn. Nhưng trong tình huống đặc biệt này, hoàn cảnh cuộc sống đã khiến cho Nguyễn Khuyến cường điệu hóa sự thiếu thốn của mình đến nỗi chẳng có gì để tiếp bạn, đến nỗi cả trầu cũng không có. Ông cha ta có câu “ Miếng trầu là đầu câu chuyện”.
Từ miếng trầu tiếp khách đến bữa cơm đạm bạc cá, gà, mướp, bầu… đều không có. Qua đây cũng thể hiện sự thân thiết vượt qua cả mức tình bạn- tình tri kỷ, tình anh em ruột rà khi mà tác giả đã không ngần ngại kể ra những sự khó khăn của mình với bạn mà không hề giấu giếm. Đó là tình bạn chân thành nhất, thiêng liêng cao quý nhất.
Câu kết bài là vừa là sự tóm kết vừa là sự bùng nổ về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần phải cao lương mỹ vị, mâm cao cỗ đầy nào cho xa mà chỉ cần một chén rượu nhạt, với tình cảm đong đầy thì hai người bạn đã có thể thưởng thức đầy đủ niềm vui gặp mặt.
Bác đến chơi đây, ta với ta. Chữ “bác” xuất hiện lần thứ hai với tràn đầy sự kính trọng mà cũng đầy đặn sự thân quen. “ Ta với ta”, hai mà như một. Bởi lẽ họ hiểu nhau như thể đã hòa hợp làm một con người. Câu nói ấy cũng thể hiện được sự kệ đời, không màng xung quanh, chỉ cần có bạn và tình bạn thôi cũng đã đủ để tác giả vui sướng khôn tả rồi. Vật chất họ không hề có, nhưng thay vào đó họ có tình bằng hữu thâm giao quý giá ngàn vạn lần.
Hai con người khác nhau, hai hình dáng nhưng suy nghĩ và tình cảm của họ dường như đã hòa hợp vào nhau, khăng khít với nhau. Họ thăm nhau dựa trên tình tri kỉ keo sơn gắn kết, một tình bạn không thể tách rời, vĩnh hằng. Bài thơ như dạy cho chúng ta phải biết trân trọng và nuôi dưỡng tình bạn, hãy mở lòng với mọi người và đừng bao giờ để vật chất làm hoen ố và mờ đi giá trị thiêng liêng của tình bạn, tình tri kỷ.
Tóm lại, bài “ Bạn đến chơi nhà” của nhà thơ Nguyễn Khuyến được viết bằng lời thơ mộc mạc, giản dị, thật gần gũi và rất tự nhiên. Qua đó ta nhìn thấy một hồn thơ đẹp và tình bằng hữu thâm giao. Đó là tình bạn được xây dựng từ sự hiểu nhau, chia sẻ, cảm thông, tôn trọng lẫn nhau và không hề có sự vụ lợi. Bài thơ giúp chúng ta nhìn nhận lại chính bản thân mình, nhắc nhở rằng không để vật chất lôi kéo mà hãy luôn giữ được tình bạn cao đẹp, trong sáng thủy chung vốn là bản tính của người dân Việt.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 12
Nguyễn Khuyến hay còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ là một trong những nhà thơ Nôm nổi tiếng nhất của Việt Nam. Thơ ông là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tao nhã, trau chuốt với vẻ đẹp tự nhiên, hàm súc mà chân thành. Bạn đến chơi nhà là một bài thơ như vậy. Bài thơ đã cho thấy tình bạn thắm thiết sâu nặng, và đây cũng là một trong những chủ đề sáng tác nổi bật của ông.
Nội dung bao trùm bài thơ là tình bạn chân thành, thắm thiết, nó được bộc lộ qua hoàn cảnh tiếp đãi hết sức bất ngờ, thú vị. Mở đầu bài thơ cho thấy mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa hai người: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà”. Tiếng gọi “bác” thật gần gũi, dân dã mà vẫn thể hiện được sự kính trọng. “Đã bấy lâu nay” cách tính thời gian của tác giả cũng phần nào cho thấy Nguyễn Khuyến thường xuyên nghĩ đến bạn, mong gặp bạn nên mới nhớ được khoảng thời gian gặp gỡ từ lần trước đến lần này là bao lâu. Sau câu thơ mở đầu, hàng loạt tình huống éo le đã diễn ra.
Trước hết trẻ con không ở nhà, nên không có ai đi chợ, vậy có lẽ nơi quê nhà của tác giả sẽ có những món ăn giản dị để tiếp đãi người bạn thân thiết của mình chăng? Nhưng trái lại, những món ăn sơn hào hải vị đã không có nay những thứ có sẵn ở nhà cũng không thể dùng để làm mâm cơm mời khách: ao sâu, nước lớn nên “khôn chài cá”, vườn rộng rào thưa khó đuổi được gà. Đến rau quả cũng không: bầu vừa rụng rốn, cà mới nụ, cải chưa lên cây, … Nhà có cả mà hóa ra lại thành không có thứ gì. Sự thiếu thốn còn được đẩy lên một cấp độ cao hơn nữa: “Đầu trò tiếp khách trầu không có”. Trong văn hóa người Việt, miếng trầu là đầu câu chuyện, trong nhà ai cũng có miếng trầu thơm, quả cau khô để tiếp đãi khách đến nhà. Nhưng nhà Nguyễn Khuyến đến điều cơ bản ấy cũng không có. Nhưng có phải thật là như vậy không, một con người chu đáo, cẩn thận như Nguyễn Khuyến có lẽ sẽ không để tình huống ấy xảy ra. Tác giả đưa ra tình huống éo le: trẻ đi vắng, chợ xa, nhà thiếu thốn,… để thử thách tấm lòng trong tình bạn, thử thách này là thử thách dành cho hai người, liệu đây có phải một tình bạn đẹp, tình
Không phải là cái “ta với ta” cô đơn, lạc lõng như Bà Huyện Thanh Quan mà là “ta với ta” của tình bạn đẹp đẽ, sâu đậm. Giữa chủ và khách đã không còn khoảng cách, hai người hòa làm một. Mặc dù vật chất thiếu thốn, nhưng cái còn đọng lại, cái quan trọng nhất chính là tình cảm, tình bạn thắm thiết. Có lẽ trong cuộc tiếp đãi đó không có cơm canh, không có miếng trầu thơm nhưng nó vẫn diễn ra hết sức vui vẻ, thân mật, gần gũi. Đây mới thực sự là tình bạn chân chính.
Bài thơ đã vận dụng tài tình cách lập ý, tạo tình huống bất ngờ, hấp dẫn, đưa ra hàng loạt các thiếu thốn, để từ cái không đó nói về cái có: tình bạn chân thành, thắm thiết. Lời thơ bình dị, dân dã nhưng cũng hết sức điêu luyện. Dùng nhiều khẩu ngữ, đậm chất lời ăn tiếng nói hàng ngày: “thời, khôn, chửa…” điêu luyện trong cách dùng từ “ta với ta” tuy hai mà một, bao gồm cả chủ và khách. Hình ảnh mộc mạc, dân dã, quen thuộc của làng quê Việt Nam: ao cá, vườn rau.
Bài thơ đã đạt đến sự hài hòa về nội dung, điêu luyện về nghệ thuật. Tác phẩm khẳng định tình bạn là một tình cảm thiêng liêng, cao quý chúng ta phải biết nâng niu, trân trọng. Cái cốt yếu nhất trong tình bạn không phải là của cải vật chất mà là cách hành xử, đối đãi với nhau. Quan niệm của Nguyễn Khuyến về tình bạn vẫn có ý nghĩa và giá trị bền vững, lâu dài.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 13
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Một trong những bài thơ hay của ông có thể kể đến Bạn đến chơi nhà. Bài thơ đã ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết.
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa”
Hai câu thơ mở đầu giới thiệu về việc người bạn đến chơi nhà. Cụm từ “đã bấy lâu nay” cho thấy khoảng thời gian kéo dài, rất lâu. Điều đó khiến cho nhân vật trữ tình rất vui vẻ, mong muốn được tiếp đón bạn thật chu đáo. Cách xưng hô “bác” thể hiện mối quan hệ gần gũi, thân mật. Nhưng hoàn cảnh lại không cho phép khi trẻ thì đi vắng, không có người để sai đi mua đồ tiếp đãi bạn mà chợ lại ở quá xa xôi.
Nhưng không dừng lại ở đó, hoàn cảnh của nhân vật trữ tình càng thêm éo le hơn với một loại hình ảnh được khắc họa:
“Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có”
Trong căn nhà của nhân vật trữ tình, mọi thứ đều chưa thể dùng để tiếp khách: “ao sâu – khôn chài cá”, “cải chửa ra cây, cà mới nụ”, “bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Ngay cả “miếng trầu” quan trọng nhất bởi có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì ở đây cũng không có. Nhưng dù vậy, sự thiếu thốn đó vẫn không làm tăng thêm khoảng cách giữa những người bạn tri kỉ:
“Bác đến chơi đây ta với ta”
Câu thơ cuối như một lời khẳng định cho tình bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng đã từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Nhưng “ta với ta” trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan chỉ tác giả, đang chỉ có một mình nơi đèo Ngang hoang vu. Từ đó, câu thơ càng làm tăng thêm nỗi buồn và nỗi cô đơn, sợ hãi trước dòng thời gian trôi chảy.
Còn trong thơ của Nguyễn Khuyến, cụm từ “ta với ta” lại mang ý nghĩa khác. Đại từ “ta” thứ nhất chính là nhân vật trữ tình, còn đại từ “ta” thứ hai chỉ người bạn. Từ “với” cho thấy mối quan hệ song hành, gắn bó. “Ta với ta” đồng nghĩa với tôi với bác, chúng ta với nhau. Cuộc sống tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng có bạn lại thấy vui vẻ, hạnh phúc. Tình bạn tri kỉ thật đáng ngưỡng mộ, cảm phục biết bao nhiêu.
Bằng những hình ảnh giản dị, giọng thơ dí dỏm, bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến đã gửi gắm được một thông điệp ý nghĩa, giá trị về tình bạn.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 14
Câu thơ bộc lộ thật rõ nét tình cảm chân thành của tác giả đối với bạn. Đó là một tình cảm thiêng liêng cao quý. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở vững chắc là tình cảm yêu thương chân thật không màng đến vật chất.
Sống trong ngọc đá kim cương
Không bằng sống giữa tình thương bạn bè
Câu ca dao đã nêu bật được một tình cảm thiêng liêng đáng quý – Tình bạn chân thành thắm thiết. Nguyễn Khuyến, một vị quan về ở ẩn mang nỗi cô đơn u hoài, sống hiu quạnh nơi nông thôn, cũng cảm xúc dạt dào khi gặp lại bạn cũ. Ta hãy lắng nghe tiếng nói chân thành mộc mạc của nhà thơ khi nói với bạn:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
Bài thơ đã khơi dậy trong ta niềm xúc động trước tấm chân tình của nhà thơ Nguyễn Khuyến
Những bài Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến hay nhất
Một chút nhẹ nhàng tự nhiên hóm hỉnh được tác giả mở đầu bằng câu thơ:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Câu thơ như một lời chào hồ hởi thân mật vừa bộc lộ nỗi vui bất ngờ vừa tỏ ý trân trọng, quý mến bạn. Đã bấy lâu nay có nghĩa là một thời gian dài, một thời gian nhà thơ không gặp bạn, giờ đây có dịp gặp nhau làm sao mà không xúc động, không vui mừng cho được. Từ lúc cáo quan về vui sống với cảnh điền viên, ông chỉ biết lấy thiên nhiên làm bạn. Trái tim ông gửi trọn cho đất nước quê hương, nên tâm hồn luôn khắc khoải u hoài. Trong những giây phút ấy mà không ai không muốn có một người bạn để tâm sự, để an ủi. Người bạn đó đã đến với ông – Còn nỗi vui mừng nào hơn. Chính nỗi vui mừng, bất chợt mà Nguyễn Khuyên đã thốt ra lời bông đùa với bạn một cách dí dỏm cho thoả lòng trông đợi.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có.
Mới nghe qua, ta thấy dường như nhà thơ tỏ ý làm tiếc rằng đã lâu lắm rồi bạn mới tới nhà vậy mà không có một thứ gì để tiếp, bạn để thết đãi bạn cả: Chợ thì xa, người nhà trẻ con đều đi vắng cả, ao thì sâu mà nước lớn, nên không chài bắt được cá; vườn rộng thênh thang thì khó mà bắt được gà. Đến một cây cải, mớ cà hoặc một quả bầu, một trái mướp cũng không sẵn; thậm chí một miếng trầu để tiếp khách cũng không có. Tác giả đang phân trần, giải thích sự thiếu sót của mình. Thực ra đây chỉ là cách nói cường điệu như vậy mà đã đùa với bạn, vừa tỏ thái độ nhớ mong chờ đợi bấy lâu mà thôi. Và qua những lời trần tình ấy ta cũng hiểu được cuộc sống của tác giả ở làng quê: Đạm bạc, giản dị, luôn gắn bó với nông thôn.
Nhịp thơ đều đặn 4-3 nhẹ nhàng êm ái như một lời thủ thỉ, kèm theo là nụ cười hóm hỉnh, cười vui của tác giả. Đối lập với những cái “không” ấy là cái có thật đáng quý.
Bác đến chơi đây, ta với ta…
Câu thơ bộc lộ thật rõ nét tình cảm chân thành của tác giả đối với bạn. Đó là một tình cảm thiêng liêng cao quý. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở vững chắc là tình cảm yêu thương chân thật không màng đến vật chất. Bác đến chơi đây không có gì cả, chỉ có ta với ta khiến ta nhớ đến câu kết trong bài Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan khi đứng trước cảnh đèo ngang hoang vắng cô liêu, đang mang nặng một nỗi u buồn, niềm suy tư khôn cả, không thể tâm sự cùng ai, nên bà tự quay về với lòng mình “ta với ta”. Còn “ta với ta” mà nhà thơ Nguyễn Khuyến sử dụng nhằm chỉ nhà thơ và người bạn tuy hai mà một, tuy một mà hai, nó gắn bó quyện chặt vào nhau, không gì chia cắt được. Ở đây chỉ có ta với ta nhưng lại có tất cả. Bởi vì tình bạn giữa ta với ta mới là cao quý, nó không đòi hỏi bất kì một điều kiện vật chất nào cả, thậm chí cả một miếng trầu làm đầu câu chuyện để tiếp bác cũng không. Qua đó ta mới thấy nghệ thuật trào lộng của Nguyễn Khuyến thật là hóm hỉnh nhẹ nhàng mà tế nhị sâu sắc.
Bài thơ thể hiện sự thành công của tác giả trong bút pháp trào phúng. Ngôn ngữ được sử dụng một cách đặc sắc. Tuy là bài thơ Đường với khuôn mẫu bó buộc nhưng lời thơ lại bình dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những sản vật của nông thôn được đưa vào thơ ông thật đậm đà hương vị làng quê. Ngôn ngữ quần chúng kết hợp với âm a (nhà, xa, cá, gà, hoa, ta) thể hiện rõ nét chất phác thật thà đôn hậu của một con người. Chính yếu tố âm điệu, nhịp điệu bài thơ phối hợp nhịp nhàng tạo ra một mạch thơ liên tục, thanh thoát, tự nhiên như lời nói chuyện tâm tình của nhà thơ với người bạn tri âm tri kỷ của mình.
Đây là một trong những bài thơ hay về tình bạn trong sáng chân thành thắm thiết của Nguyễn Khuyến. Bài thơ làm nổi bật một nét đẹp trong cuộc đời và thơ văn Nguyễn Khuyến. Ông xứng đáng là một nhà thơ của làng quê Việt Nam. Tình bạn cao cả tuyệt vời của nhà thơ sẽ là bài học giúp ta tìm và cảm nhận được những tình cảm thiêng liêng đáng quý đó.
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà – mẫu 15
Nhắc đến Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, ta sẽ nhớ ngay đến một hồn thơ dân dã, giản dị, mang đậm tinh thần dân tộc nhưng cũng không kém phần tinh tế, thi vị. Một trong các tác phẩm được biết đến rộng rãi nhất của ông phải kể đến “Bạn đến chơi nhà”, sáng tác khi nhà thơ về ở ẩn tại quê nhà.
Mở đầu tác phẩm, ta thấy ngay được lời chào hết sức tự nhiên, dí dỏm mà Nguyễn Khuyến dành cho người bạn xa cách lâu ngày:
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà”
Cụm từ “đã bấy lâu nay” lập tức giúp độc giả liên tưởng đến khoảng thời gian khá dài. Xa cách như vậy, nay cả hai có dịp gặp lại, hội ngộ với nhau, cảm xúc chắc chắn vô cùng phấn khởi, vui mừng. Đại từ “bác” cất lên lại càng chứng minh rõ cho sự thân thiết, gắn bó giữa hai người bạn. Cả câu thơ như một lời reo vui, mang theo giọng điệu cởi mở, chân thành. Từ đó, thể hiện sự hiếu khách của gia chủ.
Sang đến những vần thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến đã dí dỏm mà tạo ra một hoàn cảnh đầy éo le:
“Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có”
Thông thường, khi có khách tới chơi, chủ nhà sẽ nhiệt tình tiếp đón bằng vô số món ăn ngon được chuẩn bị chu đáo. Huống hồ đây lại là một người bạn thân thiết đã lâu không gặp, có thể coi như một vị khách quý. Ấy thế nhưng hoàn cảnh ở đây lại hoàn toàn trái ngược. Nguyễn Khuyến không ngần ngại mà thể hiện cái thiếu thốn, đạm bạc của chính mình. Nào là nhà xa chợ, trẻ đi vắng, ao sâu chẳng bắt được cá, vườn rộng chẳng đuổi được gà. Đến cả rau cũng “chửa ra cây”, “mới nụ”, “vừa rụng rốn”, “đương hoa”, nói gọn lại là chưa ăn được. Thậm chí, ngay đến miếng trầu để tiếp khách cũng chẳng có. Bằng biện pháp liệt kê cùng giọng điệu dí dỏm, hài hước, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một “nghịch cảnh” đầy éo le khi khách quý đến mà nhà không còn gì để tiếp. Cuộc sống chốn thôn quê bình yên của Nguyễn Khuyến vô cùng đạm bạc, hay có thể nói là thiếu thốn về mặt vật chất. Thế nhưng tinh thần của nhà thơ vẫn vô cùng lạc quan, vẫn rất vui vẻ, hóm hỉnh chứ chẳng có chút khổ đau, buồn tủi nào.
Chính trong hoàn cảnh éo le đó, vẻ đẹp của tình bạn lại càng tỏa sáng hơn:
“Bác đến chơi đây, ta với ta”
Tuy nhà chẳng có gì, không gà, không cá, không rau, cũng chẳng có lấy miếng trầu, thế nhưng “bác” vẫn ghé chơi với gia chủ. Tình bạn này hoàn toàn dựa trên sự trân trọng, yêu mến lẫn nhau, không màng những thứ vật chất phù phiếm. Ở đây chỉ có “ta với ta”. Trong bài thơ “Qua đèo Ngang”, Bà Huyện Thanh Quan cũng sử dụng cụm từ này để chỉ nỗi cô đơn, lẻ loi trước thiên nhiên rộng lớn: “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Tuy nhiên, ở “Bạn đến chơi nhà”, cụm từ “ta với ta” lại mang ý nghĩa khác. Chữ “ta” đầu tiên là chủ nhà, còn chữ “ta” thứ hai là chỉ người khách. Họ tuy hai mà một, tuy một mà hai, thể hiện mối quan hệ gắn bó, song hành, chắng còn khoảng cách giữa những người tri âm tri kỉ.
Chỉ qua vài câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Khuyến đã đem đến cho độc giả câu chuyện về một tình bạn đẹp. Tình bạn ấy vượt lên trên mọi thứ vật chất, chỉ đọng lại sự chân thành, mộc mạc, gần gũi. Qua đây, ta cũng thấy rõ hơn được tài năng nghệ thuật cũng như tấm lòng đáng quý của tác giả.