Đề bài: Phân tích hình tượng những chiếc xe không kính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

Bài làm

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai

Vâng, đó là khí thế hăm hở, mạnh mẽ, hào hùng của những chàng dũng sĩ mặc áo lính, khoác áo chiến sĩ trong cuộc kháng chiến trường kì chống đế quốc Mĩ xâm lược. Và cũng góp mình vào công cuộc bảo vệ đất nước, vì hòa bình dân tộc ấy, Phạm Tiến Duật – một nhà tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam, cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Nguyễn Đức Mậu… đã vừa cầm súng, lại vừa cầm bút, dùng tiếng thơ của mình làm bàn xoay chế độ, mỗi vần thơ là bom đạn phá cường quyền. Để rồi khi người ta nhắc tới Phạm Tiến Duật thì những bài thơ viết về người lính, về các cô gái thanh niên xung phong mười tám, đôi mươi cứ lần lượt hiện lên trong tâm trí như: Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, Gửi em cô thanh niên xung phong, Lửa đèn… và trong đó tiêu biểu có “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Đến với bài thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa với biết bao phẩm chất tuyệt vời như: dũng cảm, hiên ngang, mạnh mẽ, kiên cường và pha chút hóm hỉnh, tươi vui. Đồng thời, qua tác phẩm, người đọc thấy được sự tàn khốc của hiện thực chiến tranh, in hằn lên hình hài dáng vóc của người lính và đặc biệt là sự trần trụi đến hoang tàn của những chiếc xe không kính bị bom mìn tàn phá.

Thực ra, trước Phạm Tiến Duật đã có rất nhiều phương tiện giao thông đã được các nghệ sĩ đưa vào trong thơ của mình. Đó là hình ảnh của một con tàu tiến lên Tây Bắc trong bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.

Hay đó là con thuyền tiến ra khơi đánh bắt cá của những người ngư dân miền chài lưới trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận…

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đàn thế trận lưới vây giăng.

Nhưng tất cả những xe cộ, tàu thuyền ấy khi đi vào thơ đều được lãng mạn hóa, mang một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Còn những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật lại xuất phát từ hình ảnh có thực, thật đến trần trụi, “sống sít”, chỉ có trong chiến trường Trường Sơn thời kì chống Mĩ.

Đầu tiên, hình ảnh những chiếc xe không kính gây ấn tượng khác lạ và độc đáo ban đầu nơi người đọc qua cách đặt nhan đề của Phạm Tiến Duật: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề khá dài, có vẻ như có chỗ thừa nhưng chính cái điểm ấy mà tạo nên cái độc lạ, thu hút sự chú ý của bạn đọc. Tác giả đã thêm vào nhan đề tác phẩm hai chữ “bài thơ”, điều đó cho thấy được chất thơ trong bài thơ, đồng thời cho thấy được cái nhìn lãng mạn của tác giả trước hiện thực khốc liệt của chiến tranh về những chiếc xe không kính do bom rơi, đạn lạc. Và với cách đặt nhan đề bài thơ như vậy, Phạm Tiến Duật cũng muốn nhấn mạnh đến những chiếc xe không kính trong khói lửa chiến tranh chỉ có ở chiến trường miền Nam thời kháng chiến chống Mĩ có rất nhiều, rất đông trở thành cả một “tiểu đội xe không kính”. Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi và trẻ trung của người lính khi lái những chiếc xe không kính bon bon ra chiến trường. Cho nên, ngay nhan đề thơ đã gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc thái thẩm mĩ riêng cho toàn bộ bài thơ: hóm hình, tươi vui, tinh nghịch, rất lính tráng.

Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về hình ảnh của những chiếc xe không kính vẫn băng băng tiến ra chiến trường. Tác giả chỉ ra nguyên nhân của những chiếc xe không có kính bằng một câu thơ văn xuôi rất tự nhiên, rất chân thực:

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Dòng thơ đầu, gồm có mười chữ với giọng điệu bướng bỉnh, ngang tàng, khai mở chủ âm của toàn bài. Tác giả đã biến cái không bình thường thành bình thường, thậm chí như thú vị trước điều đó. Đây là những chiếc xe đã đi qua bom đạn thử thách – “bom giật bom rung” là cái khốc liệt của chiến trường làm xe bị hư hại. Điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ kết hợp với động từ mạnh “giật” , “rung” vừa có ý nghĩa giải thích nguyên nhân xe không có kính, lại vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự dữ dội, tàn phá khủng khiếp của chiến tranh.

Và sự tàn phá ấy không chỉ gây “thương tật” cho một chiếc xe mà còn tạo nên những tiểu đội xe không kính:

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Không dừng lại ở đó, trong chiến tranh bom rơi đạn lạc, những chiếc xe không chỉ bị vỡ kính mà còn bị biến dạng trở nên biến dạng thêm, trần trụi hơn nữa:

Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Điệp từ “không có…” kết hợp với cách liệt kê hình ảnh các bộ phận thiếu thốn của xe “kính, mui, đèn, thùng xe” đã cho thấy cái nhìn rất chân thực về chiến tranh. Đó là sự hủy diệt vô cùng tàn khốc của bom rơi, đạn lạc nơi chiến trường xa xôi. Nhưng, bộ não, linh hồn của xe dường như không phải là máy móc, mà là tấm lòng người chiến sĩ, nên:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Dù bom đạn đã phá hủy tất cả chiếc xe, nhưng “trái tim” ” của người chiến sĩ lái xe là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi. Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt.

Đến đây, chúng ta nhận ra một điều, chắc hẳn Phạm Tiến Duật phải là một hồn thơ nhạy cảm, có nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái mới lạ thì mới có thể nhận ra được và đưa những chiếc xe không kính vào trong thơ, trở thành biểu tượng độc đáo của thời kì chiến tranh chống Mĩ tuyệt vời đến như vậy. Hình ảnh này tạo nên cái tứ lạ, độc đáo, vừa nói lên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn: dũng cảm, hiên ngang, tếu táo, tinh nghịch, rất lính tráng…

Đề bài: Phân tích tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Bài làm

Phạm Tiến Duật là gương mặt tiêu biểu cho thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ. Ông thường viết về người lính và những thanh niên xung phong, với giọng điệu thơ sôi nổi, trẻ trung, tinh nghịch. Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 đã vẽ lên chân dung những người lính sôi nổi, lạc quan, mà cũng vô cùng anh hùng, dũng cảm.

Lối đặt nhan đề bài thơ hết sức độc đáo. Tác giả lấy từ Bài thơ để đặt nhan đề cho một bài thơ. Tưởng là thừa mà kì thực không phải như vậy, với cách đặt nhan đề đó, trước hết Phạm Tiến Duật đã để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc. Không chỉ vậy, ông cũng muốn nhấn mạnh, bài thơ của mình không chỉ nói về hiện thực chiến tranh khốc liệt mà còn muốn nói về chất thơ trong hiện thực đó. Chất thơ trong tâm hồn trẻ trung, ngang tàng của người lính lái xe. Nhan đề đã khắc họa, đề cao vẻ đẹp của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

Hình ảnh gây ấn tượng nhất với bạn đọc là hình ảnh những chiếc xe không kính, ngay với câu thơ đầu tiên, Phạm Tiến Duật đã thật hóm hỉnh khi giới thiệu về chúng :

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

Câu thơ đầu sử dụng một loạt từ phủ định từ không có, không phải để rồi sau đó giải thích do bom giật, bom rung nên kính đã vỡ hết. Giọng thơ thật hóm hỉnh mà cũng thật ngang tàng. Chiếc xe ấy không chỉ vỡ kính mà còn không có đèn, không có mui, thùng xe xước. Hình dáng chiếc xe thật méo mó đã phản ánh sự khốc liệt của chiến trường, phá hủy toàn bộ những chiếc xe đi trên cung đường Trường Sơn. Đồng thời cũng cho thấy nhưng gian khổ mà người lính phải gắng mình vượt qua. Không chỉ vậy, ta còn nhận được sự gan góc, kiên cường của người lính lái xe. Nhưng cũng chính nhờ chiếc xe không kính đó, mà người lính có cơ hội hòa mình vào thiên nhiên, phát hiện vẻ đẹp của đất trời, làm cho tình đồng chí, đồng đội trở nên gắn bó và khăng khít hơn.

Trên tuyến đường Trường Sơn hết sức gập ghềnh chứa đầy hiểm nguy, ta không chỉ thấy nổi bật hình ảnh những chiếc xe không kính, mà nổi bật và đẹp đẽ hơn cả là chân dung những người lính lái xe.

Trước hết họ hiện lên trong tư thế ung dung, hiện ngang: Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng. Chữ ung dung được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh vào tư thế chủ động, bình tĩnh, tự tin của người lính. Điệp từ nhìn, cùng thủ pháp liệt kê với lối miêu tả hiện thực trần trụi, không né tránh, đã khắc họa những gian khổ mà họ phải đương đầu. Tuy nhiên, họ không hề né tránh mà kiên cường, anh dũng đối mặt với những gian nan, thử thách ấy.

Họ còn mang trong mình tinh thần lạc quan, sôi nổi, tinh thần trẻ trung, hóm hỉnh. Hiện thực vô cùng gian khổ: bụi, mưa Trường Sơn dưới con mắt họ không còn là những thử thách, khó khăn mà nó trở thành cơ hội để họ giao hòa với thiên nhiên. Giọng điệu hóm hỉnh, đầy vui đùa: ừ thì có, không có, chưa cần đã làm mờ đi cái khắc nghiệt của chiến tranh, cái nhìn trở nên lạc quan, tươi vui hơn.

Trải qua nhiều gian khó, đối với họ tình cảm đồng đội thật thiêng liêng, trân quý. Tình cảm ấy, không thể hiện bằng lời nói ngọt ngào mà chỉ đơn thuần là cái bắt tay vội vã khi gặp nhau giữa đường. Cái bắt tay ấy giúp họ chia sẻ mọi khó khăn, gian khổ, tiếp cho họ thêm sức mạnh để tiếp tục chiến đấu trên những chặng đường phía trước. Lời động viên thầm lặng mà nồng ấm, có sức mạnh to lớn, không gì có thể thay thế được. Sự gắn bó của họ không chỉ dừng lại ở tình cảm đồng chí, đồng đội, ở tình cảm bạn bè mà đã được nâng lên một thứ tình cảm khác thiêng liêng, quý báu hơn đó là tình cảm gia đình: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời/ Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy. Giữa những khói bom lửa đạn của chiến tranh, họ vẫn dành cho nhau chút thời gian ngắn ngủi để cùng nhau ăn bữa cơm. Dù bữa cơm trắng có phần đạm bạc nhưng lại ấm áp tình người. Bữa cơm ấy đã xóa nhòa khoảng cách, khiến những con người xa lạ trở thành những người anh em ruột thịt. Bữa cơm đã tiếp thêm cho họ sức mạnh tinh thần để lại đi lại đi trời xanh thêm. Điệp từ lại đi được lặp lại hai lần cho thấy những đoàn xe nhịp nhàng nối đuôi nhau ra trận trong không khí khẩn trương. Hình ảnh ẩn dụ trời xanh thêm cho chúng ta thấy tinh thần lạc quan, yêu đời, niềm vui phơi phới của những chiến sĩ. Đồng thời màu xanh đó cũng tượng trưng cho tương lai hi vọng vào ngày mai tất thắng của dân tộc.

Khổ thơ cuối cùng, một lần nữa khắc họa, khẳng định ý chí chiến đấu vì miền Nam, vì độc lập của tổ quốc. Ba câu thơ đầu, Phạm Tiến Duật đề cập đến những cái không của những chiếc xe: không có kính, không có đèn, thùng xe xước. Nhưng chính cái không ấy để đến câu thơ cuối cùng ông làm nổi bật lên cái có :

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Trái tim nồng ấm, nhiệt thành đã trở thành nhãn tự, làm bừng sáng cả bài thơ. Chỉ cần trong những chiếc xe đó có trái tim của những người chiến sĩ thì mọi khó khăn, gian khổ đều có thể vượt qua để đi đến chiến thắng cuối cùng. Hình ảnh người lính lái xe là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam, là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời kì chống Mỹ cứu nước.

Tác giả sử dụng thể thơ tự do đậm chất văn xuôi khiến câu chuyện về người lính được thuật lại thật tự nhiên, hóm hỉnh. Hình ảnh thơ chân thực. Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự nhiên, như lời ăn tiếng nói hàng ngày nên dễ đi vào lòng người. Giọng điệu: vừa ngang tàng, khỏe khoắn vừa hài hước, dí dỏm

Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã xây dựng vô cùng xuất sắc chân dung những người lính với biết bao phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào, ngợi ca. Trái tim nồng cháy của họ còn tỏa rạng đến muôn thế hệ sau. Họ chính là tấm gương để chúng ta, thế hệ trẻ học tập và noi theo để xây dựng đất nước.