- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích truyện ngắn Tôi đi học – Thanh Tịnh
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích tâm trạng nhân vật tôi trong truyện ngắn Tôi đi học
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý phân tích các hình ảnh so sánh trong truyện ngắn Tôi đi học
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý Cảm nhận về truyện ngắn Tôi đi học
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Tìm và phân tích các hình ảnh so sánh trong truyện ngắn “Tôi đi học”
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích hình ảnh so sánh trong bài “Tôi đi học”.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận về truyện ngắn “Tôi đi học”
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận nhân vật tôi trong tác phẩm “Tôi đi học”.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật Hồng trong truyện ngắn Trong lòng mẹ
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý Phân tích nhân vật Hồng trong truyện ngắn Trong lòng mẹ
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật bà mẹ và bé Hồng trong tập hồi kí “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật bé Hồng trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật bé Hồng trong đoạn trích “Trong lòng mẹ”.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Qua đoạn trích “Trong lòng mẹ”, em hãy chứng minh nhận định: “Hồi kí của Nguyên Hồng không phải là những trang ghi chép một cách giản đơn, khô khan những sự việc đã qua. Ông viết hồi ký theo cách thức của một nhà văn với một rung động mãnh liệt của trái tim người nghệ sĩ”.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật bà cô trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích “Con có thương thầy thương u” (“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố) để làm rõ tấm lòng thương con qua diễn biến tâm lí của chị.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật chị Dậu qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”, trích “Tắt đèn” Ngô Tất Tố.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật chị Dậu trong “Tắt đèn” Ngô Tất Tố.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu qua Tức nước vỡ bờ: chị Dậu có thể nhẫn nhục chịu đựng nhưng khi đã bị đẩy tới chân tường thì cũng biết vùng lên chống trả quyết liệt, thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Qua chương “Tức nước vỡ bở” (“Tắt đèn” – Ngô Tất Tố), phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu: chị Dậu có thể nhẫn nhục chịu đựng nhưng khi đã bị đẩy tới chân tường thì cũng biết vùng lên chống trả quyết liệt, thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích diễn biến tâm lí chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ: Chị Dậu có thể nhẫn nhịn chịu đựng nhưng khi bị đẩy đến bước đường cùng thì cũng biết vùng lên chống trả quyết liệt, thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật vợ chồng Nghị Quế trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích bộ mặt tàn ác, bất nhân của lũ tôi tớ, tay sai chế độ thực dân, phong kiến qua chương XVIII “Tức nuớc vỡ bờ” trích từ tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Hãy phân tích hai nhân vật cha và con trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương. ” (Nam Cao – Lão Hạc). Hãy chứng minh nhận xét này qua các nhân vật trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là nhũng người đáng thương. ” (Nam Cao – Lão Hạc). Hãy chứng minh nhận xét này qua các nhân vật trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý Cảm nghĩ truyện ngắn Cô bé bán diêm
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nghĩ về nhân vật cô bé bán diêm trong truyện ngắn cùng tên
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận của em về truyện “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận của em về truyện “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen (Bài 2)
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích truyện Đánh nhau với cối xay gió
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý Phân tích nhân vật Đôn-ki-hô-tê trong Đánh nhau với cối xay gió
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật Đôn-ki-hô-tê trong Đánh nhau với cối xay gió
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Đôn Ki-hô-tê là một người có lí tưởng, muốn thực hiện những điều công lí chính nghĩa, trừng phạt kẻ độc ác, xóa bỏ việc bất công.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật Đôn-ki-hô-tê.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió” của Xéc-van-tét.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận về đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió” của Xéc-van-tét.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích truyện ngắn chiếc lá cuối cùng
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý Phân tích nhân vật Bơ-men trong truyện Chiếc lá cuối cùng
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Dàn ý Tại sao chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác?
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Em hãy phân tích nhân vật Bơ-men trong truyện “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích hai nhân vật Xiu và Giôn-xi trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận của em về truyện “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Ý nghĩa hình ảnh chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Tại sao “Chiếc lá cuối cùng” là một kiệt tác?
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích đoạn trích Hai cây phong
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận về tác phẩm “Hai cây phong” của Ai-ma-tốp.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích tác phẩm “Hai cây phong” của Ai-ma-tốp.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích bài “Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000”.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nghĩ về bài “Ôn dịch, thuốc lá” của Nguyễn Khắc Viện.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích bài “Ôn dịch, thuốc lá” của Nguyễn Khắc Viện.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích bài “Bài toán dân số” của Thái An.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Vấn đề dân số được thể hiện như thế nào qua “Bài toán dân số” của Thái An.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích hình ảnh nhà cách mạng yêu nước qua bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” của Phan Bội Châu.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Qua bộ phận thơ văn yêu nuớc đã học từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, em hãy chứng minh khí phách anh hùng, ý chí kiên cường và tấm lòng yêu nước thiết tha của các tác giả trong giai đoạn này.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận về bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Qua bộ phận thơ văn yêu nuớc đã học từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, em hãy chứng minh khí phách anh hùng, ý chí kiên cường và tấm lòng yêu nước thiết tha của các tác giả trong giai đoạn này.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Tìm hiểu tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” của Tản Đà.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận về bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” của Tản Đà.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cái ngông của Tản Đà qua bài thơ “Muốn làm thằng Cuội”.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích bài thơ “Hai chữ nước nhà” của Trần Tuấn Khải.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Cảm nhận bài thơ “Hai chữ nước nhà” của Trần Tuấn Khải.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích bài thơ Nhớ rừng
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Hãy phân tích tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú qua bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích tâm trạng con hổ trong bài Nhớ rừng.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích tác phẩm “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ Ông đồ
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ “Ông đồ” để làm rõ niềm cảm thương chân thành về một lớp người và lòng hoài niệm một thời đã qua của Vũ Đình Liên.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Cảm nhận bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích bài thơ Quê hương
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Cảm nhận bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Cảm nhận bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Tố Hữu
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Cảm nhận về bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Bức tranh thiên nhiên trong “Khi con tu hú” của Tố Hữu.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài thơ “Tức cảnh Pác Pó” của Hồ Chí Minh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Cảm nhận về bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Hình ảnh Bác Hồ qua bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài thơ “Ngắm trăng” (Vọng nguyệt) của Hồ Chí Minh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Cảm nhận về bài thơ “Ngắm trăng” của Bác Hồ.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích bài thơ Đi đường
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Cảm nhận về bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích tác phẩm “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích Chiếu dời đô – Lí Công Uẩn
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Chứng minh “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã bộc lộ sâu sắc lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm của ông trước giặc ngoại xâm.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích đoạn trích Nước Đại Việt ta
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Chứng minh Nước Đại Việt ta là một bản tuyên ngôn bất hủ
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích đoạn trích Nước Đại Việt ta
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Làm sáng tỏ nhận định: “Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Chứng minh đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (trích Bình Ngô đại cáo) của Nguyễn Trãi là bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của nước Đại Việt.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích bài Bàn luận về phép học.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích bài “Thuế máu” của Nguyễn Ái Quốc.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích tội ác của thực dân qua bài Thuế máu.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích bài Thuế máu
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du của Ru-xô.
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Dàn ý Phân tích bài Đi bộ ngao du
- Văn mẫu lớp 8 Tập 2: Phân tích đoạn kịch Ông Giuốc đanh mặc lễ phục.
Đề bài: Phân tích bài “Ôn dịch, thuốc lá” của Nguyễn Khắc Viện.
Bài làm
Qua bài Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000, các nhà khoa học đã cảnh báo chúng ta một nguy cơ ô nhiễm môi trường là nạn sử dụng bao bì ni lông một cách bừa bãi. Song còn biết bao nhiêu tệ nạn nữa cần cảnh báo, thậm chí cần báo động. Một trong những tệ nạn ấy là “nghiện thuốc lá”. Đọc bài Ôn dịch, thuốc lá của bác sĩ – nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện – chúng ta được cảnh báo thêm vể một vấn đề thiết yếu với đời sống mỗi người. Đây là một vãn bản thuyết minh, kết hợp những lập luận khoa học rất sáng tỏ và chặt chẽ. Từ nhan đề của văn bản đến bố cục, các dẫn chứng, các lời giải thích, lập luận, nhất là hai cụm từ (một ở phần mở đầu, một ở phần kết thúc), tác giả đã vừa chỉ rõ những nguy hại ghê gớm vừa bày tỏ sự kinh hãi, lời lên án gay gắt với tộ nghiện thuốc lá. Lấy ra hai cụm từ đặc sắc của bài văn, chúng ta có thể coi đây là những tiếng báo động khẩn thiết về nạn nghiện thuốc lá mà mỗi lần nghĩ đến ai cũng phái rùng mình, kinh sợ: Ôn dịch, thuốc lá, tiếng báo động… nghĩ đến mà kinh!
Tiếng báo động đáng kinh sợ ấy thể hiện ngay từ cái tiêu đề của bài viết. Tác giả dùng từ “thuốc lá” là nói tắt của “tệ nghiện thuốc lá”. Đặt “thuốc lá” sau từ “ôn dịch” là muốn so sánh tệ nghiện thuốc lá như một thứ bệnh có đặc điểm là dễ lây lan như “dịch tả”, “dịch cúm”,… Nhưng không viết “dịch thuốc lá” mà viết “Ôn dịch…”, một từ thường dùng làm tiếng chửi rủa, hơn nữa lại đặt dấu phẩy giữa “ôn dịch” và “thuốc lá” như một biện pháp tu từ, người viết đã biểu lộ tình cảm vừa căm tức vừa ghê rợn. Ta có thể hiểu thâm ý của người viết thế này chăng : “Thuốc lá ! Mày là đổ ôn dịch, đáng ghét, cần tiêu diệt”. Và tiếp theo, ngay ở phán mở bài (từ câu đầu đến “… còn nặng hơn cả AIDS”), tiếng báo động đã trực tiếp vang lên. Từ tin mừng loài người hầu như đã diệt trừ được dịch hạch, dịch tá, người viết nói tới đại dịch AIDS, rồi giống lên hồi còi dài bằng một câu vãn trĩu nặng nỗi lo: “… nhiều nhà bác học sau mấy chục năm và hơn năm vạn công trình nghiên cứu đã lớn tiếng báo động : Ôn dịch thuốc lá đang đe doạ sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS”. Đúng là một hồi còi báo động làm kinh sợ người đọc, người nghe. Bởi vì, tác giả đã đặt ôn dịch thuốc lá ngang tầm với AIDS, đã sử dụng con số hơn năm vạn công trình nghiên cứu sau mấy chục năm của các nhà bác học để nhấn mạnh tính xác đáng, tầm quan trọng của thông tin. Tuy là văn bản khoa học, văn thuyết minh, nhưng cách dùng từ, đặt câu của tác giả khá tinh tế, phần nào bộc lộ được cảm xúc người viết và truyền tới người đọc.
Tiếng báo động đáng kinh sợ ấy được triển khai, như những âm thanh lan toả trong phán thân bài, và xuống cả phần kết luận. Sau mở bài nói về hiểm hoạ của ôn dịch thuốc lá trong xã hội ngày nay, tác giả đổi ý nói chuyện đánh giặc của cha ông xưa : “Ngày trước Trần Hưng Đạo căn dặn nhà vua: Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu”. Viết như thế có ý gì ? Phải chăng, muốn mượn lời người xưa bàn về binh pháp, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện nhấn mạnh mức độ nguy hiểm và kiểu cách phá hoại của tệ nghiện thuốc lá. Nói cụ thể là: tệ nghiện thuốc lá nguy hiểm không kém gì giặc cướp, giặc ngoại xâm. Thuốc lá phá hoại cuộc sống con người như tằm gặm nhấm lá dâu. Với con tằm ăn lá dâu, ta có thể nhìn thấy, có thể cho phép hay ngăn chặn. Còn thuốc lá, nó phá hoại chúng ta bằng cách gặm nhấm âm thầm, bí mật, từng giờ, từng ngày không dỗ gì nhìn thấy được và không dễ gì ngăn chặn dược. Câu văn mở đầu phần thân bài đúng là hồi còi báo động, báo cho chúng ta biết: thuốc lá là giặc cướp, thuốc lá gặm nhấm sức lực và cả tâm hồn, dạo đức của loài người, của mỗi con người chúng ta.
Trước hết, thuốc lá gặm nhấm cơ thể, sức lực người hút, người nghiện. Tác giả chỉ rõ : “Khói thuốc lá chứa nhiều chất độc, thấm vào cơ thể”. Bằng lời giảng của một nhà khoa học, một bác sĩ tài giỏi, tác giả giải thích, phân tích cụ thể tác hại của khói thuốc lá đối với các bộ phận trong cơ thể người hút, người nghiện. Sau mỗi lời giảng giải là một sơ kết, nhấn mạnh những hậu quá thuốc lá gieo vào con người. Nào là “gây ho hen và sau nhiều năm gây viêm phế quán”, nào là “sức khoẻ người nghiện thuốc ngày càng sút kém”. Lại nữa, hỏi bệnh viện K, bác sĩ viện trường thông báo: “trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá”, đến Viện tim mạch, cũng dược nghe Viện trưởng cho biết: “chất ni-cô-tin của thuốc lá làm các động mạch co thắt lại, gây những bệnh nghiêm trọng như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim,… có thấy những người 40 – 50 tuổi đã chết đột xuất vì nhồi máu cơ tim… có thấy những khối u ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê gớm của thuốc lá…”. Trong một câu ngắn có tính khoa học lạnh lùng, tác giả đã dùng liền hai từ biểu cảm ghê tởm, ghê gờm khiến người đọc, đọc lên không khỏi rùng mình. Đấy là tiếng báo động cấp 1.
Tiếp sau là tiếng báo động cấp 2: thuốc lá gặm nhấm cơ thể, sức khoẻ những người xung quanh. Để báo động điều này, tác giả sử dụng cách lập luận, tranh luận đơn giản mà thuyết phục. Dẫn lí sự của người nghiện : “Tồi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi”, tác giả “đấu lại” luôn : “Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu độc những người ớ gần anh… Hút thuốc thì người gần anh cũng hít phái luồng khói dộc. Điều này hàng nghìn công trình nghiên cứu đã chứng minh…”. Như thế là rõ, người nghiện thuốc, hút thuốc không chỉ tự đầu độc mình mà còn đầu độc những người xung quanh. Những người xung quanh đó là ai? Đó là vợ, con, những người làm việc cùng phòng, những người tiếp xúc với người nghiện. Họ hít phải khói thụốc, bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, cũng ung thứ,… Và “Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm dộc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác”. Những từ ngữ đầu độc, tội nghiệp thay, một tội ác… xen kẽ trong đoạn văn vừa nhấn mạnh mức độ nguy hại của thuốc lá vừa bày tỏ thái độ nghiêm khắc phê phán những người nghiện thuốc lá. Tri thức khoa học, kết hợp phương pháp lập luận và ngôn ngữ biểu cảm khiến cho đoạn văn sinh động, có sức thuyết phục cao.
Cao thêm một bậc nữa là thuốc lá gặm nhấm tâm hồn và lối sống của con người, nhất là thế hệ trẻ. Bố và anh, chú và bác hút thuốc không chỉ đầu độc thể lực mà còn nêu gương xấu cho con cháu. Tác giả nói như thế, rồi dẫn chứng số tiền thanh thiếu niên Âu Mỹ, thanh thiếu niên Việt Nam mua bao thuốc và nhấn mạnh: “đã hút là phải hút thuốc sang. Chỉ có một cách là trộm cắp… Từ điếu thuốc sang cốc bia rồi đến ma tuý, con đường phạm pháp đã mở đầu với điếu thuốc. Người lớn hút thuốc… chính là đã đẩy con em vào con đường phạm pháp”. Ở đây, tác giả tập trung phê phán người lớn để đệm thêm cho tiếng báo động về tệ nạn nghiện thuốc lá. Song thế hệ trẻ, những học sinh THCS và THPT chúng ta cũng cần lắng nghe để giữ mình, đừng nên đổ lỗi hoàn toàn cho người lớn. Bởi vì, những người lớn nghiện hút nêu gương xấu trước mặt trẻ em, nếu trẻ em ý thức được cái xấu ấy, không đua đòi học theo thì thuốc lá không dỗ gì hoành hành, tác yêu tác quái. Có thể nói, tiếng còi báo động của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện về nạn nghiện thuốc lá, tác hại và cách gây hại của thuốc lá mỗi lúc một gióng cao thêm, vang xa hơn và thấm sâu vào trong lòng tất cả mọi lớp người.
Vào phần cuối của bài viết, giọng văn dịu đi chút ít để thông báo về các chiến dịch chống thuốc lá ở nhiều nước trên thế giới. Tác giả đưa ra những con số cụ thể những tên nước cụ thể với những yêu cầu, những khẩu hiệu cụ thể. Từ đó, đối chiếu với nước ta, vị bác sĩ, nhà khoa học rất mực thương dân, luôn lo , lắng cho tương lai đất nước ấy đã thốt ra những lời nói thống thiết : “Nước ta… đang còn trong tình trạng có nhiều bệnh tật do vi trùng, kí sinh trùng gây nên, nay lại… nhiễm thêm các bệnh do thuốc lá; sốt rét, bệnh phong, lao, ỉa chảy, chưa thanh toán được, lại ôm thêm ôn dịch thuốc lá này. Nghĩ đến mà kinh ! Đã đến lúc mọi người phải đứng lên chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này.”. Đoạn vãn không chỉ thuyết minh, thông báo khoa học mà đã chuyển sang kêu gọi mạnh mẽ. Tiếng báo động chuyển thành lời kêu gọi chiến đấu khẩn trương, quyết liệt. Tác giả vừa biểu cảm – “nghĩ đến mà kinh”, rùng mình, kinh sợ thuốc lá, nạn nghiện thuốc lá, vừa truyền cảm, giục giã người đọc. Đọc đến dòng văn cuối cùng, nhất là cụm từ mệnh lệnh : “Đã đến lúc mọi người phải đứng lên chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này”, lòng chúng ta không khỏi xáo động, chân tay chúng ta không khỏi… ngứa ngáy. Tiếng báo dộng cất lên ở đầu bài văn dến đây đã thành tiếng kêu cấp cứu.
Tóm lại, giống như ôn dịch, nạn nghiện thuốc lá rất dễ lây lan và gây những tổn thất to lớn cho sức khoẻ và tính mạng con người. Song nạn nghiện thuốc lá còn nguy hiểm hơn cả ôn dịch. Nó gặm nhấm sức khoẻ con người nên không dễ nhận biết, nó gây tác hại nhiều mặt đối với cuộc sống gia đình và xã hội, mọi người hãy tìm cách chống lại nó, ngãn chặn nó. Muốn thế, ta cần có quyết tâm lớn, tự giác cao và nhiều biện pháp triệt để hơn cả việc phòng chống ôn dịch.
Đề bài: Phân tích bài “Ôn dịch, thuốc lá” (trong Từ thuốc lá đến ma túy) của Nguyễn Khắc Viện.
Bài làm
Là một bác sĩ lâu năm giàu kinh nghiệm, tác giả Nguyễn Khắc Viện đã viết bài Từ thuốc lá đến ma túy để phân tích tác hại to lớn của thuốc lá đối với đời sống cá nhân và cộng đồng, thông qua đó nêu lên quyết tâm chống thuốc lá của Nhà nước ta. Đoạn ôn dịch, thuốc lá được trích từ văn bản này.
Trước hết, ta nên hiểu tựa để trên như thế nào cho đúng?
Thuốc lá là cách nói tắt của tệ nghiện thuốc lá. Ôn dịch là từ dân gian dùng để chỉ chủng các loại bệnh nguy hiểm, dễ lây lan và làm chết người hàng loại. Ví dụ dịch tả, dịch HIV, SARS… Tác giả so sánh tác hại đáng sợ của thuốc lá với hậu quả ghê gớm của ôn dịch là rất chính xác. Từ ôn dịch còn được dân gian dùng làm tiếng chửi rủa với hàm ý ghê tởm. Có thể diễn giải một cách cụ thể ý nghĩa của tựa đề bài văn như sau: Thuốc lá là một thứ ôn dịch.
Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu nhận xét chung về hậu quả ghê gớm của những nạn dịch từ trước đến nay và lấy đó làm cơ sở để khẳng định tác hại nghiêm trọng của thuốc lá: Dịch hạch, thổ tả, hàng vạn hàng triệu người chết, nhờ tiến bộ y học, loài người hầu như đã diệt trừ được những dịch khủng khiếp ấy. Nhưng vào cuối thế kỉ này lại xuất hiện những ôn dịch khác.
“Ôn dịch thuốc lá đang đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.”
Câu cuối này chính là luận đề của văn bản. Phần sau giải thích và chứng minh cho luận đề. Cách đặt vấn đề nhự vậy thật độc đáo. Tác giả dùng phương pháp tăng cấp để thu hút sự chú ý của người đọc và nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề được đặt ra trong bài viết của mình.
Ở phần 2, tác giả khẳng định rằng thuốc lá đã và đang đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người.
Tác giả đã mượn câu nói nổi tiếng của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo: “Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu để so sánh những khó khăn trong việc chống thuốc lá không kém gì việc chống giặc ngoại xâm”. Khói thuốc lá được ví như thứ giặc vô hình, rất khó đối phó. Các chất độc trong khói thuốc không tàn phá ngay một lúc sức khỏe con người mà nó gặm nhấm từng chút một theo kiểu tằm ăn lá dâu, rốt cuộc là không còn gì cả. Người hút không thấy ngay tác hại của thuốc lá và càng không hể biết rằng hơn bốn ngàn chất độc trong khói thuốc lá cố khả năng gây ra những bệnh hiểm nghèo. Ngược lại, họ còn thấy sảng khoái, thư giãn khi ngậm điếu thuốc phì phèo nhả khói, thậm chí còn coi đó là một biểu tượng quý trọng (!) Nhiều thiếu niên còn lấy thuốc lá để chứng tỏ là mình “sành điệu” và khẳng định rằng mình đã lớn. Tại sao mọi người lại có thái độ chủ quan, coi nhẹ tác hại của thuốc lá như vậy? Bởi vì, người hút thuốc lá không lăn đùng ra chết, không say bê bết như người uống rượu nên không sợ.
Ở phần 2, tác giả đã phân tích cặn kẽ và nêu ra hàng loạt dẫn chứng cụ thể để chứng minh mức độ nguy hại của khói thuốc: “Khói thuốc lá chứa nhiều chất độc, thấm vào cơ thể. Nạn nhân đầu tiên là những lông rung của những tế bào niêm mạc ở vòm họng, ở phế quản, ở nang phổi bị chất hắc ín trong khói thuốc lá làm tê liệt Các lông mao này có chức năng quét dọn bụi bặm và các vi khuẩn theo luồng không khi tràn vào phế quản và phổi; khi các lông mao ngừng hoạt động, bụi và vi khuẩn không được đẩy ra ngoài nữa, tích tụ lại gây ho hen và sau nhiều năm gây viêm phế quản. …”
Cuối cùng, tác giả kết luận về tác hại ghê gớm của khói thuốc lá không chỉ đối với sức khỏe con người mà cồn đối với các lĩnh vực khác trong xã hội, cao hơn nữa là cả nền kinh tế quốc dân:
“…chỉ riêng bệnh viêm phế quản của hàng triệu người cũng đã làm mất bao nhiêu ngày công lao động và làm tổn hao sức khỏe cộng đồng. Vậy thì những bệnh nặng hơn do thuốc lá gây ra như ung thư, tim mạch… sẽ làm tổn hao bao nhiêu tiền của cho người bệnh và công sức của những người phải bỏ việc để phục vụ bệnh nhân? Rõ ràng, thuốc lá gây thiệt hại rất lớn cho bản thân, gia đình và xã hội.”
Bên cạnh việc nêu lên tác hại của khói thuốc lá đối với bản thân người hút, tác giả còn nêu ra tác hại đối với cả những người không hút thuốc. Để làm nổi bật điều này, tác giả nhắc lại những lời chống chế thường gặp ở những người nghiện hút: Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi! Bằng những lập luận chặt chẽ, dẫn chứng sinh động và cả sự bức xúc, tác giả đã bác bỏ luận điệu sai lầm ấy: “Vợ con, những người làm việc cùng phòng với những người nghiện thuốc cũng bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, cũng bị ung thư. Anh có quyền hút, nhưng có mặt người khác, xin mời anh ra ngoài sân, ngoài hành lang mà hút. …”
Hay “Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác.”
Tác giả đã cụ thể hoá hai khái niệm được các nhà nghiên cứu y học sử dụng là hút thuốc lá chủ động và hút thuốc lá bị động. Người không hút nhưng thường xuyên phải hít khói thuốc cũng bị ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Bản thân người hút tự làm hại mình đồng thời cũng làm hại bao nhiêu người khác. Đây là điều mà mọi người cán biết và lên án.
Để chứng minh thuốc lá gây thiệt hại như thế nào về mặt kinh tế, tác giả đã lấy dẫn chứng từ xã hội Âu – Mĩ xa xôi để so sánh với nước ta: “Tỉ lệ thanh thiếu niên hút thuốc ở các thành phố lớn nước ta ngang với tỉ lệ các thành phố Âu – Mĩ. Chi có khác là với một thanh niên Mĩ 1 đô la mua một bao thuốc lá là một khoản tiền nhỏ, còn đối với một thiếu niên Việt Nam, muốn có 15.000 đồng mua một bao 555 – (giá hiện nay là sáu mươi ngàn đồng) …”
Đúng như vậy! Ngày nay, không ít học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ thông đã tập tành phì phèo điếu thuốc trên môi. Không chỉ nam mà cả nữ.
Đó là những hình ảnh không đẹp về tuổi học trò trong trắng, hồn nhiên. Nhà trường và gia đình cần lưu tâm khuyên nhủ và ngăn chặn kịp thời.
Trước những tác hại ghê gớm của thuốc lá, tác giả đã bày tỏ sự bức xúc của mình và đưa ra một số giải pháp tích cực để khống chế và dần dần đi đến việc cấm sản xuất và sử dụng thuốc lá trên phạm vi toàn thế giới: “Ngày nay, đi các nước phát triển, đâu đâu cũng nổi lên chiến dịch chống thuốc lá. Người ta cấm hút thuốc ở tất cả những nơi công cộng, phạt nặng những người vi phạm (Ở Bỉ, từ năm 1987, vi phạm lần thứ nhất phạt 40 đô la, tái phạm 500 đồ la). Khắp nơi, những tài liệu, khẩu hiệu chống thuốc lá dần dần lấn át những quảng cáo của các hảng thuốc lá. Và nhiều nước đã cấm quảng cáo thuốc lá trên báo chí, vô tuyến truyền hình. …”
Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa chủ đề tác hại của thuốc lá vào chương trình Ngữ văn ở trung học cơ sở để giúp học sinh nhận thức được tác hại ghê gớm của thuốc lá và hạn chế dần tệ hút thuốc lá trong cán bộ, công nhân viên, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, những người mà hai lá phổi của họ là “công cụ” quan trọng nhất của nghề dạy học. Riêng đối với học sinh, khi đã nhận thức đầy đủ về tác hại của thuốc lá, các em sẽ lánh xa tệ nghiện hút và góp phần đẩy lùi tệ nghiện thuốc lá trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Giống như ôn dịch, nạn nghiện thuốc lá rất dễ lây lan và gây những tổn thất nghiêm trọng cho sức khoẻ và tính mạng con người. Nạn nghiện thuốc lá còn nguy hiểm hơn cả ôn dịch bởi nó gặm nhấm sức khỏe nên người ta khó nhận biết. Bên cạnh đó nó còn gây ra tác hại nhiều mặt đối với cuộc sống gia đình và xã hội. Bởi vậy, muốn tiêu diệt thuốc lá, mọi người cần phải có quyết tâm cao và biện pháp triệt để hơn cả việc phòng chống những nạn ôn dịch khác.