Đề bài: Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa

Bài làm

Ca dao là thể loại văn học dân gian diễn tả chi tiết đầy đủ nhất đời sống tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta. Ca dao đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau trong cuộc sống, nhưng nổi bật hơn cả là ca dao than thân yêu thương tình nghĩa. Đó là những câu hát thể hiện đời sống tình cảm, tiếng hát cất lên từ cuộc đời còn nhiều đắng cay, khổ cực,…

Trước hết, hai bài ca dao đầu tiên viết về chủ đề than thân. Cả hai bài đều mở đầu bằng motip thân em một motip quen thuộc, thường xuất hiện trong ca dao: Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai và Thân em như củ ấu gai/ Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen/ Ai ơi nếm thử mà xem/ Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi. Đây là tiếng than thân của những người phụ nữ, cho thấy số phận chịu nhiều bất hạnh, bất công. Câu thơ mang đến cảm xúc ngậm ngùi, thương cảm cho số phận bất hạnh của những người con gái. Cùng là tiếng than nhưng ở mỗi bài thơ có những nét riêng, không hòa lẫn. Bài thơ thứ nhất, người con gái tự ví mình với tấm lụa đào – miếng vải cao quý, hiếm và rất đẹp. Cô gái ý thức sâu sắc về vẻ đẹp, giá trị của bản thân. Ấy thế nhưng số phận của cô lại hết sức lênh đênh, bị phụ thuộc phất phơ giữa chợ – thân phận lệ thuộc, bị động, không được tự quyết định cuộc đời mình. Ở bài ca dao thứ hai, câu thơ thứ nhất dường như khiến người đọc chưa thể định hướng gì về vẻ đẹp hay phẩm chất của đối tượng. Câu thơ nói lên đặc điểm của củ ấu gai: bên ngoài xấu xí nhưng bên trong trắng trong, đẹp đẽ, đó cũng chính là vẻ đẹp phẩm chất của người con gái. Dù hình thức bên ngoài không hấp dẫn nhưng sức hấp dẫn nằm ở bên trong, ẩn sâu. Để tìm được vẻ đẹp ấy cần có con mắt tinh tế, tấm lòng thấu hiểu. Câu thơ cuối như một lời mời gọi, lời nói tha thiết, thể hiện mong mỏi của cô gái: Ai ơi, nếm thử mà xem/ Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi. Đằng sau lời đề nghị còn ẩn chứa cả một bi kịch: chính vì vẻ đẹp khuất lấp nên giá trị thực không có nhiều người nhận ra, trở thành vô giá trị trong mắt người khác. Qua đó tác giả dân gian đã khắc họa nỗi đau của người phụ nữ: xã hội không cho người phụ nữ thể hiện giá trị thực của mình. Từ bi kịch của hai cô gái trong bài ca dao, họ đã cất lên tiếng nói tố cáo xã hội: không cho họ quyết định cuộc đời, không cho họ thể hiện giá trị của mình, xã hội đã kiềm tỏa, khống chế người phụ nữ khiến họ không được hưởng hạnh phúc. Đồng thời còn cất lên lời ca ngợi và thể hiện thái độ trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ.

Những bài ca dao còn lại thuộc chùm ca dao yêu thương tình nghĩa. Nhưng mỗi bài ca dao lại có cách thể hiện rất riêng, rất đặc sắc, biểu hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của nhân vật trữ tình. Bài ca dao thứ ba thể hiện tình nghĩa bền vững sắt son dù duyên kiếp không thành. Bài ca dao cũng bắt đầu bằng một motip quen thuộc Trèo lên đây là motip dùng để diễn tả những hành động trái với tự nhiên. Ở đây để diễn tả những cảm xúc xáo trộn, bất an trong tâm hồn của các chàng trai khi lỡ duyên, thất tình. Bài thơ sử dụng hàng loạt câu hỏi tu từ kết hợp với đại từ phiếm chỉ ai, đã xoáy sâu tố cáo các thế lực, đối tượng gây nên nỗi đau khổ của chàng trai, cũng tức là gây nên sự chia cắt tình yêu của đôi lứa, và đó không gì khác chính là những hủ tục, bất công, ngang trái của xã hội phong kiến. Hình ảnh ẩn dụ: mặt trăng – mặt trời ; sao hôm – sao mai, nhưng một lời khẳng định, nhấn mạnh dù chúng ta không thể nào trùng phùng, không thể đến được với nhau như mặt trăng và mặt trời, như sao hôm và sao mai thế nhưng chúng ta vẫn tương xứng trong vẻ đẹp vĩnh hằng. Và câu thơ cuối, nhân vật trữ tình đã khẳng định lòng thủy chung son sắt của mình: Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời. Bài thơ là lời khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt, gắn bó đồng thời lên án, tố cáo những hủ tục đã chia rẽ tình yêu đôi lứa.

Bài ca dao thứ tư lại diễn tả một cung bậc cảm xúc khác nữa của tình yêu chính là nỗi nhớ. Bài có cấu trúc khác so với những bài thơ trên, đó là sự kết hợp giữa thể vãn bốn và thể lục bát, giúp thể hiện rõ hơn tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của nhân vật. Tác giả đã kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, hoán dụ, câu hỏi tu từ và các biểu tượng khăn đèn, mắt cho thấy nỗi nhờ thường trực, da diết khắc khoải của cô gái với người mình yêu thương. Nỗi nhớ của nhân vật trữ tình được thể hiện kín đáo qua các vật dụng quen thuộc: khăn, đèn nhưng trạng thái của sự vật không tĩnh tại mà liên tục biến đổi: rơi xuống, vắt lên, chùi nước mắt,… cho thấy nỗi nhớ bồn chồn, khắc khoải của những kẻ đang yêu. Nỗi nhớ mong ấy còn được biểu hiện qua hàng loạt các câu hỏi: Đèn thương nhớ ai; Mắt thương nhớ ai. Dường như nỗi nhớ lúc này đã không thể kìm nén mà bật thành tiếng lòng thổn thức, khắc khoải nhớ thương: đèn không tắt vì nhớ thương, mắt ngủ không yên vì đèn, khăn cũng đang thao thức, đây chính là hình ảnh, biểu hiện cụ thể nhất của tình yêu đôi lứa. Hai câu thơ kết là những âu lo, dự cảm của cô gái: Đêm qua em những lo phiền/ Lo vì một nỗi không yên một bề. Cô lo lắng, bất an, dự cảm về những bất trắc vì người con gái không được tự quyết định tương lai, hạnh phúc của mình. Những vẫn thơ đã chứng tỏ tình yêu chân thành, tha thiết, khắc khoải của cô gái với người mình yêu.

Bài ca dao thứ năm thể hiện những mong muốn mãnh liệt trong tình yêu: “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”. Câu thơ sử dụng hình ảnh biểu tượng quen thuộc: dòng sông – cây cầu. Dòng sông biểu tượng cho sự cách trở. Cây cầu là biểu tượng cho sự vượt lên cách trở để đến được với nhau trong tình yêu. Điều ước của cô gái thật chân thực mà vô cùng đáng yêu: Sông rộng một gang, dòng sông chỉ xuất hiện trong tưởng tượng, trong mong ước của cô gái. Ước muốn rằng khoảng cách của hai ta, những cách trở của đôi mình được rút ngắn một cách tối đa. Cầu dải yếm – để tương xứng với dòng sông rộng một gang. Cây cầu này là biểu tượng vượt lên những cách trở. Đây cũng là sản phẩm của trí tưởng tượng của cô gái. Nói lên ước muốn của cô gái – muốn rút ngắn khoảng cách: khoảng cách về mặt địa lí, khoảng cách của trái tim, vượt qua những ngáng trở để đón nhận tình yêu.

Bài ca dao cuối cùng không thể hiện những cảm xúc mãnh liệt, nỗi nhớ nhung trong tình yêu nữa mà thể hiện tình nghĩa gắn bó thủy chung của vợ chồng. Câu thơ sử dụng hình ảnh biểu tượng quen thuộc: muối – gừng, để nói về nghĩa tình sâu nặng, bền chặt, sự thủy chung, gắn bó của vợ chồng. Ngoài ra tác giả còn sử dụng biện pháp lặp cấu trúc: Muối ba năm muối đang còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay, cho thấy sự bền chặt của nghĩa tình vợ chồng. Bài ca dao là lời khẳng định, ngợi ca nghĩa tình vợ chồng gắn bó thủy chung, sâu nặng.

Các bài ca dao sử dụng các motip quen thuộc: thân em, trèo lên, ước gì kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,… giúp diễn tả tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình. Ngôn ngữ chọn lọc, giàu giá trị biểu cảm. Hình ảnh giàu giá trị biểu tượng. Nhịp thơ chủ yếu là 2/2/2 êm ái, dịu dàng diễn tả được đa dạng các cung bậc cảm xúc khác nhau của nhân vật.

Những bài ca dao trên đã bộc lộ một cách chân tình và sâu sắc nỗi niềm chua xót, đắng cay trong cuộc sống và tình yêu; tình cảm yêu thương, chung thủy của người bình dân trong xã hội cũ. Qua đó giúp người đọc biết thấu hiểu và cảm thông hơn với những đau khổ mà người lao động bình dân trong xã hội xưa phải gánh chịu, đặc biệt là người phụ nữ và hơn nữa biết trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của họ.

Đề bài: Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa

Bài làm

Trong kho tàng ca dao truyền thống của ta, bộ phận nói về chủ đề than thân của người phụ nữ chiếm một tỉ lệ rất lớn và trong đó, đáng chú ý nhất là loại bài ngắn (hai câu lục bát hoặc bốn câu). Đó là một trong những mảng ca dao hay nhất, giàu ý nghĩa xã hội và cũng giàu chất ca dao nhất. Chúng thường được mớ đầu bằng những mô típ truyền thống quen thuộc: “Em như…” hoặc “Thân em…”. Đọc qua hoặc nghe qua thì thấy chúng có dáng dấp bề ngoài hao hao giống nhau, nhưng đi sâu vào từng bài cụ thể thì sẽ thấy mỗi câu, mỗi bài đều có những nét riêng không lặp lại về nội dung cũng như về nghệ thuật:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”

Đây là niềm băn khoăn của cô con gái mới lớn, bước vào tuổi lấy chồng. Hình ảnh tấm lụa đào lộng lẫy tượng trưng cho nhan sắc và tuổi xuân phơi phới của người con gái đến tuổi dậy thì, chứng tỏ người con gái ý thức được rất rõ giá trị của mình. Nhưng đây không phải là tấm lụa đào cất trong rương, vắt trong nhà mà đem bán giữa chợ: phất phơ giữa chợ. Cô gái thấy mình đến tuổi gả bán. Trong điều kiện chưa có hôn nhân tự do, mà do mai mối đưa đường, người con gái cảm thấy như là đang ở giữa chợ. “Biết vào tay ai” là một băn khoăn, không phải sợ ế, sợ rẻ, mà chỉ sợ người chủ tương lai của đời mình sẽ thế nào. Đó cũng là câu hỏi của mọi cô gái đến tuổi lấy chồng, một băn khoăn rất thật, rất người.

“Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen

Không tin bóc vỏ mà xem

Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi”.

Người con gái trong bài này lại có tâm trạng lo lắng khác. Cô tự biết phẩm chất của mình thơm thảo, ngọt ngào, nhưng hình như cô có bề ngoài không lấy làm hấp dẫn cho lắm, cô phải tự giới thiệu, chào mời và hứa hẹn về phẩm chất của mình.

“Trèo lên cây khế nửa ngày

Ai làm chua xót lòng này khế ơi!

Mặt trăng sánh với mặt trời,

Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng

Mình ơi có nhớ ta chăng?

Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời”.

Người con gái trong bài này đã có người yêu, hai người đã khá tương xứng, đẹp đôi như mặt trăng sánh với mặt trời, sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng. Nhưng anh chàng hình như có gì trục trặc, giống như thay lòng đổi dạ. Nhưng người con gái thì kiên định chờ đợi một lòng.

Ca dao than thân, tình nghĩa là bách khoa thư về hàng nghìn, hàng vạn tâm trạng, số phận con người. Bài Khăn thương nhớ ai nói nỗi lòng tương tư nhớ thương bạn tình qua hình ảnh chiếc khăn, ngọn đèn, con mắt đã làm xúc động bao người. Hoài Thanh có lần nói, nếu chì hai câu sau: Mắt thương nhớ ai mà mắt không yên thì ta đã thấy hay rồi, nhưng là loại hay có thể hiểu được. Còn như hai câu đầu thì hay đẽn mức cơ hồ không hiểu được, không rõ hẳn là nói gì mà vẫn thấy hay. Tôi xem là một trong những câu ca dao hay nhất Việt Nam. Ca dao tương tư rất nhiều và cũng rất đa dạng. Chữ thương, chữ nhớ nói đi nói lại mãi vẫn cứ là mới và không lặp lại. Đây là bài ca dao rất độc đáo, nội dung và nghệ thuật của nó không trùng với bất kì bài ca dao nào khác. Ở đây hai từ thương, nhớ được dùng liền nhau, gắn với từ ai tạo thành một cụm từ điệp và điệp đến năm lần mà mỗi lần nghe đều thấy hay, không biết chán. Bởi vì cụm từ “thương nhớ ai” được gắn với một chủ thể riêng. Các chủ thể Khăn, đèn, mắt tuy khác nhau ahưng đều là một, cáu hỏi thay đổi nhưng câu trả lời thì vẫn giữ nguyên. Khi người ta yêu, mọi vật xung quanh như đều cùng yêu thương và thổn thức cả. Cái hay của bài này là ở đó. Thương, nhớ đều có nghĩa là yêu, nhưng nhớ là yêu mà xa cách, mà xa cách thì lo lắng không yên là rất dễ hiểu: Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi chưa yên mọi bề.

“Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”.

Sinh ra trong một nước có nhiều sông ngòi, kênh rạch, hoàn cảnh tự nhiên cũng tác động đến tư duy con người. Nhưng cái ước vọng sông rộng một gang tay thì thật là chưa đâu có. Bởi độ rộng con sông phải tương xứng với vật liệu xây đắp cái cầu là cái dải yếm. Trong ca dao đã có cầu tre, cầu ván, cầu xây, có cầu cành hồng, cầu mồng tơi, cầu sợi chỉ… nhưng độc đáo nhất bài này là cầu dải yếm. Khi thiết kế ra chiếc cầu dải yếm, cô gái kiến trúc sư Việt Nam hẳn đang độ tuổi mười tám, đòi mươi, tình yêu vừa chớm, sức tưởng tượng dồi dào. Chiếc cầu này chỉ tồn tại trong tưởng tượng, trong ước vọng thầm kín giữa chàng và em, chỉ bắc riêng cho chàng sang chứ không cho mọi người, không phải là cầu công cộng. Đó là chiếc cầu tình yêu. Tình yêu luôn luôn đầy sáng kiến và sáng tạo, nó đẻ ra cái cầu kì diệu.

“Muối ba năm muối vẫn còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu nghìn ngày mới xa”.

Trong ca dao Việt Nam thường nói tới gừng cay, muối mặn khi nói về tình nghĩa. Muối không chỉ là khoáng chất thiết yếu của sự sống mà còn là thứ gia vị quý giá của thức ăn, có muối mới được đậm đà. Muối biểu tượng cho sự mặn mà, tình nghĩa. Người Nga đón khách quý thì đem bánh mì và muối ra mời khách nêm, coi như người trong một nhà. Gừng là biểu tượng của mọi sự cay đắng của cuộc đời. Gừng cay muối mặn tượng trưng cho cuộc đời cay đắng, ngọt bùi có nhau. Hai câu đầu bài ca dao nêu ra hai câu khởi hứng, vừa ẩn dụ, khẳng định vị mặn và vị cay vẫn có sức bền những ba năm, chín tháng. Cũng ví như “Đôi ta nghĩa nặng tình dày, Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu nghìn ngày mới xa”. Ba vạn sáu nghìn ngày tức là trăm năm, cũng tức là suốt đời, “bách niên giai lão”. Nói ba vạn sáu nghìn ngày không đơn giản chỉ vì cho hiệp vần, mà còn có ý nói tình đôi ta không phải tính năm, mà tính từng ngày, chúng ta yêu nhau từng ngày, có tính từng ngày thì mới ro được tình của ta. Nói mới xa mà thực là không xa hay nói cách khác chỉ đến chết mới cách xa.

Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa của Việt Nam thật phong phú, đa dạng. Chỉ tìm hiểu sơ sơ có sáu bài mà ta đã thấy biết bao tâm trạng của con người, biết bao khát vọng, lí tưởng, còn thấy được cái đẹp của biết bao hình ảnh, từ ngữ tài tình mà người bình dân đã sáng tạo ra. Đó là mảng ca dao chẳng những nuôi dưỡng cho ta những tình cảm đẹp đẽ, sâu sắc, đậm đà tính chất dân tộc, mà còn là cả một kho tàng nghệ thuật ngôn từ độc đáo đến bất ngờ, đủ cho ta yêu mến, khâm phục, kích thích ta sáng tạo.

Đề bài: Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa

Bài làm

Bài 1, 2: Ca dao là sản phẩm tinh thần của tập thể nhân dân, là tấm gương phản chiếu tâm hồn người lao động một cách sâu sắc. Tính chất “đồng sáng tạo” đó đã tạo ra trong ca dao nói riêng, trong văn học dân gian nói chung các công thức truyền thống mang tính thẩm mĩ cộng đồng trong sáng tạo nghệ thuật. Khi tìm hiểu ca dao cần đặt bài ca dao đó trong hệ thống công thức nghệ thuật truyền thống để chúng có thể âm vang trong nguồn mạch chung và thể hiện được sắc thái riêng độc đáo. Trong ca dao có niềm vui và nỗi buồn, có tiếng ca nghĩa tình và tiếng hát than thân. Khi nghĩ về thân phận của mình, người nông dân xưa kia thường cất lên tiếng ca chứa chất nỗi buồn tủi, đắng cay. Trong dòng mạch đó nổi lên rõ nhất là tiếng hát than thân về cuộc đời người phụ nữ mà hai bài ca dao mở đầu bằng hai tiếng “Thân em” là minh chứng. Cuộc đời người phụ nữ xưa kia có rất nhiều nỗi khổ cực, đắng cay. Nỗi khổ về vật chất, phải thức khuya dậy sớm dãi gió, dầm sương : Thân em như lá đài bi, Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương, Ngày ngày hai bữa cơm đèn, Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng. Nhưng nỗi khổ lớn nhất của họ vẫn là nỗi khổ tinh thần. Xã hội phong kiến xưa kia với những quan niệm bất công như “tam tòng” (ở nhà phải theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết phải theo con) đã gây ra bao nỗi khổ cực cho người phụ nữ trong suốt cả cuộc đời. Họ không có quyền định đoạt hạnh phúc cũng như cuộc đòi mình. Chính vì thế, khi nghĩ về thân phận của mình, người phụ nữ thường cất lên tiếng hát than thân chứa chất nỗi buồn tủi, đắng cay. Nếu thống kê, ta sẽ thấy số bài ca mở đầu bằng cụm từ “Thân em như” chiếm số lượng khá lớn. Nỗi khổ về thân phận bị phụ thuộc ấy được thể hiện rõ nét qua biện pháp nghệ thuật so sánh quen thuộc của ca dao. Hai bài ca dao mang nét chung trong biện pháp nghệ thuật và nội dung ý nghĩa. Hai bài đều sử dụng cụm từ mở đầu “Thân em như”. Sự giống nhau ở cấu trúc mở đầu là đặc điểm của một số bài ca dao tạo nên một hệ thống lối nói khắc sâu,ấn tượng chung về “thân phận” con người. Hai bài ca dao đều sử dụng biện pháp so sánh trực tiếp. Hai vế so sánh được nối bởi từ “như” tạo nên sự đối chiếu những nét tương đồng giữa hai đối tượng khác loại, giúp người nghe hiểu đặc điểm của sự vật và cảm thông với tâm sự của nhân vật trử tình. Thân phận con ngựời có ý nghĩa vô cùng lớn lao lại được tác giả dân gian so sánh với những vật, những đối tượng mong manh, nhỏ bé, bị phụ thuộc, chỉ được đánh giá, xem xét ở giá trị sử dụng, bị “đồ vật hoá” : Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Đây là một trong số ít bài ca mà người phụ nữ thể hiện rõ sự tự ý thức về vẻ đẹp hình thức của mình. Tấm lụa mềm mại, óng ả lại nổi bật về màu sắc. “Tấm lụa đào” là biểu tượng của tuổi thanh xuân tươi đẹp mà người phụ nữ đã ý thức được một cách rõ ràng. Câu thơ thứ nhất nêu lên hình ảnh so sánh một cách khái quát, còn câu thơ thứ hai mang tính chất bổ sung, làm rõ nghĩa cho câu trên. “Tấm lụa đào” là tấm lụa đẹp về hình thức và có giá trị nhưng lại “phất phơ giữa chợ”. Chợ là nơi kẻ qua, người lại, nơi người đời mua bán, trao đổi hàng hoá, vật dụng. Người ta có thể bán, có thể mua. “Tấm lụa đào” trở thành đối tượng sở hữu của bất kì người nào có nhu cầu mua bán, nó không có quyền lựa chọn, định đoạt số phận mình. Hình ảnh ẩn dụ và câu hỏi tu từ “biết vào tay ai” chứa đựng biết bao lo lắng về thân phận phụ thuộc, nổi trôi, mong manh của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thân em như củ ấu gai Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen. Ai ơi, nếm thử mà xem ! Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi. Đày là bài ca dao có nét chung với bài ca dao 1 như trên đã phân tích, nhưng lại có sắc thái riêng độc đáo. Nếu ở bài 1, người phụ nữ ý thức được về vẻ đẹp hình thức thì ở bài 2 này, người phụ nữ muốn khẳng định về vẻ đẹp nội dung, phẩm chất bên trong dẫu bề ngoài không tương xứng. Củ ấu gai có vỏ ngoài đen đúa, xấu xí, gai góc nhưng ẩn chứa sau vẻ ngoài xấu xí ấy là ruột ấu trắng thơm, ngọt bùi. Ai đã một lần ăn chắc sẽ nhớ và càng nhớ hơn bài học tự rút ra về cách đánh giá sự vật trong cuộc đời. Bài ca sử dụng phương pháp đối lập ngay trong một dòng thơ (tiểu đối) với các cặp tương phản : trong – ngoài, trắng – đen “Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen”. Lời mời mọc, nhắn gửi của người phụ nữ với người đời vừa là sự tự khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của mình song nghe cũng thật tủi hờn, xót xa : Ai ơi, nếm thử mà xem ! Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi. Với người con gái, sự mời mọc tha thiết và tự khẳng định ấy là sự “vạn bất đắc dĩ” bởi vì vẻ đẹp bên trong – giá trị thực của họ chẳng được ai biết đến. Bài ca dao có sự lựa chọn hình ảnh so sánh rất chính xác, vừa cụ thể vừa biểu cảm, chắc chắn đây phải là người phụ nữ lao động gắn bó với ruộng đồng mới có cái nhìn so sánh giản dị, tự nhiên như vậy. Hình ảnh được so sánh đã cụ thể hoá tâm trạng tủi buồn của người phụ nữ. Bài ca có ý nghĩa nhân văn và ý nghĩa ngầm phê phán những ai không coi trọng giá trị đích thực của con người. Hai bài ca dao trên bổ sung cho nhau, là sự tự khẳng định một vẻ đẹp bên ngoài, một vẻ đẹp bên trong nhưng bao trùm là cảm hứng ngậm ngùi, xót xa về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó là giá trị tố cáo và giá trị nhân đạo sâu sắc trong tiếng hát than thân ướt đầm nước mắt của người phụ nữ. Các bài ca dao có cùng công thức mở đầu gần gũi nhau bởi nét tương đồng trong nội dung, ý nghĩa và cùng sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh. Bên cạnh đó, mỗi bài có nét riêng trong việc lựa chọn đối tượng miêu tả và biểu hiện. Cũng để diễn tả thân phận chìm nổi của người phụ nữ mà có một loạt hình ảnh khác nhau để so sánh khiến biện pháp nghệ thuật và nội dung diễn đạt càng đa dạng, phong phú, tránh được sự đơn điệu, nhàm chán. So sánh là sự khắc hoạ một cách cụ thể, làm sáng rõ hơn những khái niệm trừu tượng : “Thân em” là khái niệm trừu tượng được thể hiện thông qua những hình ảnh giản dị, gần gũi vói cuộc sống con người : “tấm lụa đào”, “giếng giữa đàng”, “miếng cau khô”, “hạt mưa sa”,… Những vật thể rất khác nhau ấy được xích lại gần nhau nhờ những nét tương đồng bởi sự lựa chọn của biện pháp so sánh. Điều này giúp việc khắc hoạ sâu hon đặc điểm đối tượng đuợc đem ra so sánh mà vẫn giàu giá trị biểu cảm. Ta có thể thấy nhu có tiếng thở dài cam chịu, giọt nước mắt đắng cay của bao kiếp người phụ nữ xưa kia. Trong ca dao còn có rất nhiều bài khác cũng sử dụng biện pháp nghệ thuật này để thể hiện nội dung tưong tự. Bởi vì ca dao là sáng tác của nhân dân lao động, được diễn xướng trong lao động, trong hát đối đáp nơi hội hè, đình đám. Từ đời này qua đời khác, ca dao được lưu truyền, khắc hoạ rõ thêm tâm tình người lao động : – Thân em như cái quả xoài trên cây, Gió đông gió tây, gió nam gió bắc Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành. – Thân em như chổi đầu hè Phòng khi mưa gió đi về chùi chân. – Thân em như nước giếng trong Để cho bèo tấm, bèo ong lọt vào. Thân em như giếng giữa đàng Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. – Chàng ơi phụ thiếp làm chi Thiếp như com nguội đỡ khi đói lòng. Tiếp mạch cảm nghĩ chung về thân phận phụ thuộc, mỏng manh, nổi nênh của người phụ nữ trong ca dao, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã khắc hoạ rõ nét hon trong tiếng thơ đầy bản sắc của bà tạo nên một tiếng nói chung, một mạch tiếp nối giữa văn học dân gian và văn học viết : Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Những bài ca dao trên cho ta hiểu hơn về nỗi khổ của cuộc đời người phụ nữ xưa, giúp ta thêm yêu cuộc sống hiện nay. Người phụ nữ hiện đại vẫn giữ những nét dịu dàng, khiêm nhường của người phụ nữ truyền thống nhưng họ không còn phải cam chịu cuộc sống phụ thuộc mà đã ý thức được về vị thế xã hội của mình, chủ động và xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn : Một buổi sớm mai trớm bước chân mình trên cát Người mẹ cho ra đời những Phù Đổng Thiên Vương Dầu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng Là bác học hay là ai đi nữa Cũng là con của người phụ nữ Người đàn bà rất bình thường không ai biết tuổi tên.

Bài 3: Trong ca dao có một số lượng khá lớn những bài ca mở đầu bằng công thức “Trèo lên”. Như : “Trèo lên cây bưởi hái hoa…”, “Trèo lên cây gạo cao cao…”, “Trèo lên trái núi Thiên Thai…”,… Các bài ca mở đầu theo kiểu này thường gây nên không ít cách hiểu khác nhau, tạo nên những tranh luận thú vị trong cảm hiểu thơ ca dân tộc. Bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa” là một ví dụ, làm tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu và độc giả yêu thích thơ ca. Thơ ca tồn tại sâu đậm trong tâm hồn con người phải chăng cũng có phần bởi sự mơ hồ, không dễ giải thích bằng lời ấy: Trèo lên cây khế nửa ngày, Ai làm chua xót lòng này, khế ơi! Hỏi khế rằng ai đã làm chua xót lòng khế thì quả là một câu hỏi tu từ quá đỗi tài tình. Không ít người thấy câu này khó hiểu ! Phải chăng theo kinh nghiệm dân gian, trèo hái khế nói riêng, hái quả nói chung giữa nắng trưa quá mái thì quả sẽ bị chua hơn ? Phương pháp nghệ thuật nổi bật ở hai câu mở đầu này là phương pháp nhân cách hoá. Nhân cách hoá có hai hình thức : một là gọi những vật vô tri vô giác mà trò chuyện, bộc bạch với chúng như với những người bạn ; hai là gửi gắm vào các sự vật vô tri vô giác ấy những hành động, cảm xúc của con người khiến thế giói vật thể vô hồn trở nên sống động, tràn ngập cảm xúc như con người. Hai câu thơ này đã sử dụng tài tình cả hai hình thức ấy. Lựa chọn khế để hỏi vị chua là một sự lựa chọn tài tình bởi trong lòng khế (trừ khế ngọt) chẳng bao giờ hết chứa đựng vị chua. Hai câu đầu nghe sao da diết, xót xa. Lối nói ẩn dụ, kín đáo, bóng bẩy càng làm cho người nghe cảm nhận được nỗi lòng đau đớn khôn nguôi của kẻ phải chịu lỡ dở duyên tình, ở đây ẩn chứa sự tương đồng kín đáo : khế chua – lòng người chua xót. Đại từ phiếm chí “ai” và câu hỏi tu từ “ai làm chua xót” mang ý nghĩa khái quát và mở ra nhiều trường liên tưởng, giống như câu hỏi hờn giận duyên phận trong một bài ca khác “Ai làm cho bướm lìa hoa”. Ai có thể là hoàn cảnh khách quan, là xã hội, là người ngoài cuộc, cũng có thể là người trong cuộc tự chia xa. Chỉ biết rằng nhân vật trữ tình (ở đây có thể nghiêng về cách hiểu là chàng trai giống như chàng trai trong bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa”) dù duyên tình lỡ dở nhưng vẫn hoài niệm, ngóng vọng, thương nhớ khôn nguôi “người ấy” qua sự bộc bạch nỗi lòng ở nhũng câu tiếp theo : Mặt trăng sánh với mặt trời, Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng. Tác giả đã lựa chọn hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu trung cho con người, tình người. Các hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ biểu tượng của sự vĩnh cữu, tương ứng với nhau đồng thời cũng biểu tượng của sự cách xa vô vọng. Các cặp hình ảnh đối sánh : mặt trang – mặt trời, sao Hôm – sao Mai như em và anh luôn tương xứng dẫu phải xa cách. Hai lần từ “sánh với” được lặp lại và kèm thêm tính từ “chằng chằng” khẳng định dù phải cách xa nhưng hai ta vẫn đẹp đôi vừa lứa. Mặt trời lặn, mặt trăng lên là quy luật tự nhiên bất biến ; sao Hôm và sao Mai vốn chỉ là một, đó là sao Kim (khi mọc vào buổi sáng thì gọi là sao Mai, mọc vào buổi chiều thì gọi là sao Hôm). Lấy hình ảnh thiên nhiên vĩnh cửu, vô cùng vô tận để khẳng định tình yêu son sắt không đổi thay là biện pháp nghệ thuật so sánh có hiệu quả cao. Đó là những vật thể vĩnh cứu, tương xứng trong vũ trụ dẫu đối lập về thời gian xuất hiện nhưng chúng luôn là sự hồi âm, phản chiếu của nhau. Câu kết trong ca dao giao duyên thường là lúc nỗi lòng được bộc lộ trực tiếp hơn. Dường như nhân vật trữ tình không còn kìm nén lòng mình được nữa : Mình ơi! Có nhớ ta chăng ? Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời. Đại từ nhân xưng mình – ta quen thuộc trong ca dao đã xuất hiện trực tiếp. Nỗi nhớ không kìm nén được đã bật tuôn trào theo lôgíc tình cảm rất tự nhiên. Hỏi người (mình) có nhớ ta chăng và tiếp theo là lời khẳng định tình yêu son sắt của ta dẫu duyên kiếp không thành – “Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”. Sao Vượt cũng là sao Hôm hay sao Mai. Sao Vượt mọc rất sớm từ lúc chiều hôm. Khi sao Vượt lên đến đỉnh của bầu trời thì trăng mới mọc, vậy mà sao Vượt vẫn “chằng chàng” ngóng đợi trăng lên. Sự chờ đợi, ngóng vọng dẫu cô đon nhưng kiên định biết bao. Bài ca nói về nỗi xót đau lỡ dở duyên phận, nói về sự vô vọng của kẻ thất tình mà sao người nghe vẫn thấy ấm áp tình đời. Sự ấm áp ấy toả ra từ niềm tin yêu vào sự thuỷ chung son sắt của tình yêu lứa đôi, của tình người cao đẹp.

Bài 4: Bài ca dao diễn tả nỗi nhớ thưong da diết, bồn chồn của một cô gái đang yêu. Trạng thái yêu thương, mong nhớ, giận hờn, nhất là trong tình yêu trai gái là những trạng thái tình cảm trừu tượng nhưng con người luôn mong muốn được giãi bày, chia sẻ. Ca dao có rất nhiều cách diễn tả các trạng thái tình cảm phong phú, tinh tế thảm sâu trong tâm hồn con người. Có nỗi nhớ thương được diễn tả trực tiếp : “Tôi thương người ấy nhiều nhiều – Người ấy thương lại bao nhiêu mặc lòng”. Có nỗi nhớ được so sánh trực tiếp bằng sự cụ thể hoá, vật chất hoá các trạng thái tình cảm vốn ở dạng trừu tượng “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Bài ca dao Khăn thương nhớ ai này lại có nét riêng, độc đáo trong cách diễn tả. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét: “Tôi cho đây là một trong những bài ca dao hay nhất Việt Nam” (tạp chí Văn nghệ, số 1, 1982). Nét độc đáo của bài ca dao này là lối biểu đạt vừa giản dị, kín đáo vừa tinh tế, sâu sắc. Nghệ thuật nhân cách hoá, việc sử dụng điệp từ, điệp ngữ và sự lựa chọn hàng loạt các biểu tượng khăn, đèn, mắt đã góp phần diễn tả tâm trạng cô gái đang yêu. Bài ca sử dụng năm lần câu hỏi thì ba lần vang lên điệp khúc hỏi khăn, từ khăn xuất hiện liên tiếp sáu lần ở vị trí mở đầu dòng thơ. Trong ca dao giao duyên, khăn hay được nhắc đến bởi nó là vật thể quen thuộc thường quấn quýt bên người : khi đội đầu, khi chùi nước mắt hoặc là kỉ vật thiêng liêng gợi hình bóng, lưu giữ “hơi hương” của người thương, trai gái trao tặng khăn cho nhau kín đáo gủi gắm lời thề nguyền, ước hẹn: – Gửi khăn gửi áo gửi lời, Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa. – Nhớ khi khăn mở trầu trao, Miệng thì cười nụ biết bao nhiêu tình. Ở bài ca dao Khăn thương nhớ ai, biện pháp nhân cách hoá quen thuộc được sử dụng tài tình. Nỗi nhớ thưong của nhân vật trữ tình được gửi gắm kín đáo qua các vật thể quen thuộc, gần gũi với cuộc sống con người. Lựa chọn biểu tượng khăn để gửi gắm nỗi nhớ đã là sự lựa chọn chính xác, song điều đáng chú ý ở đây là sự biểu hiện trạng thái của cái khăn. Khăn không nằm yên một chỗ mà luôn vận động trong các trạng thái đa chiều, đối lập : rơi xuống, vắt lên, chùi nước mắt,… Trạng thái vận động của khăn biểu trưng cho nỗi nhớ thương bồn chồn, khắc khoải, ngồi đứng không yên của nhân vật trữ tình. Nhiều bài ca dao đã diễn tả sinh động nỗi lòng tương tư, sầu muộn của những kẻ đang yêu : “Nhớ ai nhớ mãi thế này – Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”, “Đêm nằm lưng chẳng dính giường – Mong cho đến sáng, ra đường gặp em”. Cô gái hỏi khăn rồi hỏi đèn. Đèn là hình ảnh biểu tượng của thời gian về đêm với sự ngóng vọng, đợi chờ. Nếu khăn rơi xuống, vắt lên, chùi nước mắt xô lệch trong không gian đa chiều thì đèn biểu trưng cho sự chuyển hoá của thời gian. Nỗi nhớ từ ngày chuyển sang đêm thường được biểu trưng bằng hình ảnh ngọn đèn trong ca dao : – Đèn thương ai mà đèn chẳng tắt, Ta thương mình nước mắt nhỏ sa. Đêm khuya thắp chút dầu dư, Tim lan cháy lụn, sầu tư một mình. – Đêm qua thắp đọi dầu đầy, Bấc non chẳng cháy, oan mày dầu ơi. Và cuối cùng cô gái hỏi mắt : Mắt thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Nếu những câu hỏi dồn dập trên đây hỏi khăn, hỏi đèn thể hiện qua biện pháp ẩn dụ, nhân cách hoá, thì tâm trạng nhân vật trử tình đến lúc này được bộc lộ trực tiếp. Dường như cô gái không kìm giữ được tiếng lòng thổn thức của mình nữa mà nỗi nhớ được trào dâng theo sự bộc lộ tự nhiên. Sự lựa chọn hình tượng để biểu đạt tâm trạng thật họp lí, nhất quán. Từ khăn đến đèn rồi đến mắt. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Tác giả dân gian đã dùng phép hoán dụ, lấy mắt để chỉ nhân vật trử tình. Đèn không tắt vì thương nhớ, làm sao mà mắt có thể ngủ yên khi khăn, đèn cũng thao thức, khắc khoải, cũng chính là những hình ảnh biểu đạt cụ thể nhất của tình yêu. Đại từ phiếm chỉ ai được sử dụng trong bài ca này rất phù họp với lối biểu đạt tâm trạng kín đáo của con người. Thể thơ bốn chữ gọn, chắc chuyển tải những câu hỏi dồn dập. Lối gieo vần thiên về thanh trắc đất, vắt, mắt, tắt khá độc đáo đan xen với thanh bằng ai tạo nên sự đối xứng nhịp nhàng. Hai câu thơ cuối nói về nỗi lo âu chính đáng của người con gái trong xã hội cũ : Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi không yên một bề… Đến đây ta hiểu thêm vì sao cô gái dằn vặt, nhớ thương, phấp phỏng nhường ấy. Ngoài nỗi nhớ thương, cô còn lo cho tình yêu, cho duyên phận. Một cô gái tinh tế, kín đáo, có tình yêu ngập tràn và sâu sắc thế thì làm sao không lo âu cho duyên phận của mình khi trong xã hội xưa, mỗi lần nghĩ đến thân phận của mình là người phụ nữ lại cất lên tiếng hát than thân ướt đẫm nước mắt. Biện pháp nhân cách hoá với hệ thống biểu tượng được chọn lọc, cách diễn tả tài tình, giàu sắc thái biểu cảm là những biện pháp nghệ thuật nổi bật của bài ca dao. Thiên nhiên là chất liệu nghệ thuật đắc lực giúp sự biểu đạt tình cảm đầy hiệu quả. Năm lần lặp lại năm câu hỏi chỉ thay bằng ba hình tượng khác nhau khăn, đèn, mắt theo sự bộc lộ tình cảm tăng dần. Đại từ phiếm chỉ ai quen thuộc giúp cho lối nói ẩn dụ diễn tả được đối tượng cần hướng tới vừa mơ hồ vừa gợi cảm. Chỉ mười dòng thơ, mỗi dòng bốn chữ cùng với các cặp lục bát cuối bài, các câu hỏi tu từ dồn dập đã diễn đạt thật tài tình nỗi nhớ thương, bồn chồn, da diết của cô gái.

Bài 5: Để hiểu được bài này, cần đặt bài ca dao trong hệ thống những câu hát mở đầu theo công thức truyền thống “Ước gì” và mô típ “cái cầu” quen thuộc. Khi yêu nhau người ta có nhiều ước muốn nhưng ước muốn cháy bỏng nhất đối với những đôi lứa cách xa nhau là được ở bên nhau: – Ứớc gì em hoá ra dưa, Để cho anh tắm nước mưa chậu đồng. – Ước gì anh hoá ra hoa, Để em nâng lấy rồi mà cài khăn. Ước gì anh hoá ra chăn, Để cho em đắp, em lăn, em nằm. Ước gì anh hoá ra gương, Để cho em cứ ngày thường em soi. Ước gì anh hoá ra coi, Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng. Trong ước muốn đó, có ước muốn hai bên trai gái được vượt qua đôi bờ xa cách. Cái cầu trở thành biểu tượng của những sứ giả nối liền tình yêu. Cái cầu xuất hiện trong ca dao khá đa dạng. Ngoài những cây cầu có thực như cầu tre lắt lẻo, cầu ván đóng đinh,… thì trong ca dao còn một loạt hình tượng những cây cầu ảo, chỉ tồn tại trong tưởng tượng như cầu cành hồng, cầu ngọn mùng tơi, cầu cành trầm : – Đôi ta cách một con sông Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang. – Gần đây mà chẳng sang chơi, Để em ngắt ngọn mùng tơi bắc cầu. – Sợ rằng chàng chẳng đi cầu, Cho tốn công thợ, cho sầu lòng em. Đặt trong hệ thống những bài ca ấy thì chiếc “cầu dải yếm” trong bài ca này độc đáo nhất. Những “cầu cành hồng”, “cầu ngọn mùng toi” là những cây cầu ảo, biểu tượng cho điều không thể có dẫu đẹp như cành hồng, dẫu thơm, quý như “cầu cành trầm” thì cũng chỉ là cách nói vừa biểu đạt sự trân trọng vừa là lối nói vui trong đối đáp giao duyên. Chưa có cái cầu nào độc đáo như “cầu dải yếm” trong sự mong ước cũng khôn cùng – “Ước gì sông rộng một gang”. “Cầu dải yếm” mềm mại, gợi cảm về vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ, có sức gợi bao nhiêu cho những điều không thể gợi bằng lời, vừa tinh nghịch hồn nhiên trong ước vọng tình yêu mà nhân vật trữ tình là người con gái dám thổ lộ. Chúng tôi cho rằng khi tìm hiểu bài ca dao này, không nên coi đây hoàn toàn, bắt nguồn từ một cảm hứng nghiêm túc mà là câu hát đùa vui trong đối đáp chứ không hẳn để nói thầm vói một chàng trai nào đó. Nó vừa thật vừa ảo tồn tại trong tình cảm con người: Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ lim làm ghém thì mình lấy ta. Điều cần khẳng định rằng, chỉ bàng hai dòng thơ lục bát ngắn gọn, lối biểu hiện trực tiếp với cảm hứng đậm chất dân gian hồn nhiên, đầy ngẫu hứng sáng tạo, bài ca đã hát lên thật mãnh liệt ước vọng của tình yêu. Bài 6: Lấy những sự vật quen thuộc, phổ biến trong tự nhiên để diễn tả tình cảm nhớ mong, thề nguyền, ước hẹn là thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu của ca dao. Ở những bài ca dao trên, tác giả dân gian chọn những biểu tượng mặt trăng, mặt trời, sao Hôm, sao Mai, khăn, đèn, mắt,… để diễn tả tình yêu đôi lứa.

Bài 6: Còn ở bài ca dao này, những vật được nhắc đến lại là những vật rất bình dị: muối, gừng. Muối, gừng là những gia vị trong bữa ăn hằng ngày của mỗi người, mỗi gia đình (không cao sang, đắt đỏ nhưng vô cùng cần thiết). Vị mặn của muối, vị cay nóng của gừng không thay đổi theo thời gian, ngược lại, thời gian càng làm cho nó thêm được thử thách vói những thuộc tính vốn có của nó, trở thành biểu tượng của những gì không thay đổi: – Bao giờ muối lạt chanh thanh Em đây mói dám bỏ anh lấy chồng. – Gừng già, gừng rụi, gừng cay, Anh hùng càng cực càng dày nghĩa nhân. – Muối ba năm muối đang còn mặn Gừng chín tháng gừng hãy còn cay. Vì những đặc tính ấy mà muối, gừng trở thành biểu tượng của sự thử thách đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để càng đậm đà tình nghĩa. Những cặp từ sóng đôi như gừng cay – muối mặn, ba năm – chín tháng, tình nặng – nghĩa dày với sự đối thanh đối ý hài hoà, có sắc thái thành ngữ dân gian như lời ăn tiếng nói hằng ngày của những người lao động bình dị. Nếu ca dao tình yêu thề, nguyền, ước hẹn bằng những hình tượng lãng mạn như trong bài 3, bài 4 thì bài ca dao này với biểu tượng muối, gừng biểu trưng cho tình nghĩa vợ chồng chung thuỷ, đã qua thử thách gian nan, cam khổ của cuộc đời. Ca dao nói về tình nghĩa vợ chồng thường nhắc đến tình và nghĩa. Đạo lí của con người Việt Nam nói chung, tình cảm vợ chồng nói riêng luôn đề cao cả tình và nghĩa : “Củi than nhem nhuốc với tình – Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên”. Nói về gừng cay, muối mặn cũng để tạo tiền đề cho lời thề nguyền ước hẹn : Đôi ta tình nặng nghĩa dày Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa. “Ba vạn sáu ngàn ngày” là một trăm năm, lối nói mới lạ biểu đạt thời gian trọn vẹn của một đời người. Một lời thề nguyền tạo ấn tượng sâu sắc cho người nghe về sự bình dị, chân tình nhưng son sắt. Thể thơ lục bát có sự biến thể, kéo dài câu bát thành 13 chữ họp với sự khẳng định thời gian trăm năm trong lời thề ước.