Đề bài: Phân tích những bài ca dao hài hước

Bài làm

   Bài 1: Chuyện dẫn cưới và thách cưới ở đây không có trong đời thực. Chàng trai (nhà trai) đem đến “một con chuột béo”, “miền là có thú bốn chân”; còn cô gái (nhà gái) lại thách cưới bằng “một nhà khoai lang”.

Cả chàng trai và cô gái đều đùa vui hồn nhiên. Nói chuyện cưới xin, chuyện trăm năm là một chuyện hết sức nghiêm túc nhưng vang lên tiếng cười vui vẻ, hài hước, hóm hỉnh, chứng tỏ họ đã rất hiểu hoàn cảnh của nhau và rất yêu nhau. Chỉ những người yêu nhau, không ngần ngại nghèo khó, cũng không sợ hai bên gia đình lo nghèo mới có thể đùa với nhau như thế. Một tinh thần lạc quan, trẻ trung trong cuộc sống của người lao động toát lên qua bài ca dao và để lại dư vị cho bao nhiêu người cùng cảnh ngộ. Nhất là những đôi trẻ yêu nhau, những bậc cha mẹ hai bên lo hạnh phúc cho con cái chỉ thấy cái nghèo. Cho nên đây còn là một sự cảm thông cuộc sống nghèo khó, một ngụ ý phê phán tục thách cưới nặng nề. Bên cạnh đó, điểm thú vị của bài ca dao còn ở chỗ, bộc lộ rất rõ tính cách của hai người trẻ tuổi này. Chàng trai dí dóm, thông minh, phóng khoáng. Cô gái chân chất, tần tảo, căn cơ. Chắc chắn nếu thành đôi trong đời thật, họ sẽ sống với nhau hạnh phúc và sẽ thoát nghèo.

Bài ca sử dụng các biện pháp nói quá. Trong thực tế không ai dẫn cưới bằng “một con chuột béo”. Nhất là phép lập luận loại trừ, thu hẹp dần đến kết luận bất ngờ (lời chàng trai); phép liệt kê (lời cô gái) và lối “nói sang” phóng đại, áp dụng cái lí “cù nhầy” đáng yêu, khó cãi đều cùng tính chất dẫn chuyện để tạo ra tiếng cười giàu ý nghĩa.

   Bài 2, 3, 4: Tiếng cười trong các bài ca dao này khác với bài 1 bởi tiếng cười có tính phê phán, không phải là tiếng cười vui: Bài 1 tự trào (cười mình). Các bài còn lại, cười các loài người, thói tật trong cuộc sống cộng đồng lao động.

Bài ca dao số 2, 3 đối tượng cười là những người “không đáng mặt đàn ông”. Nhưng không phải nhằm vào con người mà mục đích để chế giễu sự yếu hèn, không đảm đương được nhiệm vụ trụ cột gia đình. Cung bậc hài hước ở từng bài cũng khác nhau. Bài 2, bằng phép đòn bẩy, tương phản, nói quá là một cái bĩu môi của cô gái đáo để.

Bài 3, so sánh tương phản nói quá lên, nhưng là giọng ngậm ngùi thân ái.

Bài ca dao số 4, đối tượng cười có người cho là tình yêu mù quáng của anh chồng đối với vợ. Vì quá yêu nên xấu cũng thành đẹp. Thực ra ngụ ý dân gian không chỉ như vậy. Chủ ý là chê cười những người đàn bà thô vụng. Cũng giống như bài “Cô gái Sơn Tây, yếm thủng tày dần / Răng đen nhạt nhót, chân đi cù nèo / Tóc rễ tre, cô chải lược bờ cào…” Thêm vào đó còn một chút tán thưởng cái rộng lượng của tình yèu chồng vợ dù có khi không thật xứng đôi vừa lứa, ưng ý nhau, dù người này hay người kia có khiếm khuyết. Lấy nhau mà yêu nhau thì nhìn nhau, đánh giá nhau bằng con mắt như thế – con mắt của trái tim hào sảng. Có phê phán nhưng thân mật, vui vẻ. Đây chính là vẻ đẹp của tâm hồn lao động.

Nét riêng về nghệ thuật của mỗi bài ca dao:

Bài số 2 sử dụng lối nói ngược (“Làm trai cho đáng sức trai” mà lại chỉ “gánh hai hạt vừng”), nói quá “gánh hai hạt vừng”?).

Bài số 3 sử dụng biện pháp tương phản (giữa “chồng người” với “chồng em”), và cũng có cả biện pháp nói quá (“ngồi bếp” đế’ “sờ đuôi con mèo”?).

Bài số 4 cũng dùng biện pháp nói quá nhưng là 2 lần nói quá (đồng nói quá): vừa nói quá về cái xấu của cô vợ, lại vừa nói quá về tình yêu của ông chồng. Cái hấp dẫn của màn hài hước là ở chỗ sự cường điệu diễn ra song hành, không có điểm dừng, cho thấy tình yêu của anh chồng cũng thiên vị không có điểm dừng.

Ca dao hài hước thường sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: tương phản, nói ngược, nói quá, chơi chữ…

Đề bài: Phân tích những bài ca dao hài hước.

Bài làm

Ca dao hài hước, châm biếm là một bộ phận không thể không thể thiếu của kho tàng ca dao Việt Nam. Những bài ca dao hài hước là tiếng cười mua vui, giải trí thỏa mãn về nhu cầu giải trí tinh thần của người lao động xưa. Bài ca dao còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động, họ là những người lạc quan, yêu đời.

Bài ca dao thứ nhất là tiếng cười tự trào, mang ý vị hài hước, vui vẻ của người lao động trong cảnh nghèo. Lời đối đáp giữa chàng trai và cô gái trong việc thách cưới vô cùng lạ lùng, thú vị. Bài ca dao có lối kết cấu đối đáp, lượt lời đầu tiên là của chàng trai, bằng lối nói khoa trương, phóng đại, anh chàng đã nói về những lễ vật của mình. Nhưng cách nói lại sử dụng biện pháp đối lập: tự nêu ra nhưng chính anh chàng lại tự phủ định: Cưới chàng anh toan dẫn voi/ Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn/ Dẫn trâu, sợ họ máu hàn/ Dẫn bò sợ nhà nàng co gân./ Miễn là có thú bốn chân./ Dẫn con chuột béo mười dân, mời làng. Lí lẽ anh chàng đưa ra vô cùng hài hước: Dẫn voi thì sợ quốc cấm ; Dẫn trâu thì sợ họ máu hàn ; Dẫn bò thì sợ họ co gân. Và cuối cùng kết luận dùng con chuột béo mời dân mời làng, hi vọng con chuột béo ấy sẽ đủ để mời dân mời làng. Đáp lại lời chàng trai cô gái cũng hết sức ý nhị, dỉ dỏm, cô thách cưới một nhà khoai lang. Số khoai lang được phân phát theo trình tự hết sức hợp lí : cho dân, cho làng, cho trẻ con và cho cả những con vật trong nhà. Những lời đối đáp ấy đã cho thấy sự chu đáo, biết lo toan, đồng thời cũng rất hồn nhiên, yêu đời của cô gái. Bài ca dao thể hiện niềm lạc quan, yêu đời, ham sống của người lao động trong cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đồng thời thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của những chàng trai, cô gái xưa : Chàng trai mang trong mình sự hài hước, lạc quan, vui vẻ, tình cảm chân thành, còn cô gái là sự bằng lòng, vui vẻ, đảm đang, tháo vát, tình cảm và sự chu đáo dành cho làng xóm, họ hàng xung quanh.

Bài ca dao số hai, số ba đều tập trung phê phán những người đàn ông yếu đuối, ươn hèn, vô tích sự. Câu thơ mở đầu bằng mô tip quen thuộc làm trai, nhưng có những điểm khác biệt: Làm trai cho đáng sức trai/ Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng. Câu thơ đầu cho thấy chí làm trai oai hùng đầy kiêu hãnh, như đang gánh vác việc to lớn, việc giang sơn xã tắc. Nhưng câu thơ thứ hai đã cho thấy rõ công việc anh ta gánh vác gánh hai hạt vừng. Bài ca dao sử dụng biện pháp khoa trương, câu thơ đầu nâng cao rồi đột ngột hạ thấp, để phê phán chàng trai yếu đuối về thể xác, hèn yếu về tinh thần. Quả thật đáng lên án, phê phán.

Bài ca dao sau :

Chồng người đi ngược về xuôi,

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.

Bài ca dao trên đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa chồng người và chồng em, đồng thời gợi lên sự đối lập về không gian: đi ngược về xuôi còn chồng em không gian hoạt động chỉ ở nơi xó bếp, không gian bếp núc vốn của phụ nữ. Để hoàn chỉnh bức tranh về anh chồng nhu nhược, yếu đuối là hành động sờ đuôi con mèo. Qua đó tiếng cười bật lên, hướng vào những ông chồng vô tích sự, lười nhác.

Bài ca dao cuối cùng phê phán những người đàn bà lười biếng, cẩu thả, vô duyên. Trong truyện cười dân gian, các tác giả dân gian thường lấy đối tượng là nam để châm biếm, phê phán như tham lam, khoác lác, lười biếng nhưng người con gái lại rất ít khi trở thành đối tượng để châm biếm, đả kích. Ca dao đã hoàn thiện sự khuyết thiếu đó. Hình ảnh người phụ nữ ẩu đoảng, lười biếng hiện lên vô cùng rõ nét: Lỗ mũi mười tám gánh lông/ Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho/…/ Trên đầu những rác cùng rơm/ Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu. Bài ca dao chế giễu những người đàn bà đỏng đảnh, vô duyên: Hình dáng thô kệch, xấu xí, có nhiều thói quen xấu: Luộm thuộm, bẩn thỉu. Tiếng cười cất lên phê phán những người đàn bà đoảng vị đồng thời cũng phê phán những người chồng mù quáng, vì quá yêu vợ mà không phân biệt tốt – xấu, thực – hư.

Ba bài ca dao, tiếng cười ở đây tập trung phê phán cái xấu, cái chưa hoàn thiện trong nội bộ nhân dân. Tiếng cười có ý nghĩa giải trí, đồng thời cũng là cuộc đấu tranh của nhân dân với cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.

Ca dao hài hước châm biến thành công đều nhờ việc xây dựng tình huống gây cười, hàm chứa những mâu thuẫn gây cười. Biện pháp khoa trương, phóng đại được sự dụng thành công ở cả bốn bài ca dao. Ngoài ra biện pháp nâng cao ở phía trước hạ thấp ở phía sau cũng phát huy tác dụng để phê phán những cái xấu, cái tiêu cực trong xã hội.

Bài ca dao là lời châm biếm hài hước, nhẹ nhàng những thói hư, tật xấu trong xã hội. Đồng thời bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động xưa: sự lạc quan, yêu đời của họ trong cảnh đời còn nhiều khó khăn, vất vả.