Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 1

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang

Trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận, yếu tố cổ điển đã được sử dụng một cách tinh tế để khẳng định cái tôi buồn bã, cô đơn trước cuộc đời, qua cảm hứng bất tận với không gian vũ trụ bao la.

Trước hết, yếu tố cổ điển được thể hiện rõ nét ở đề tài. Đề tài sông nước đã xuất hiện phổ biến trong thi ca cổ, từ những dòng sông nổi tiếng trong thơ Đường, thơ Tống, đến những con sông quê hương trong thơ ca Việt Nam. Nhan đề “Tràng giang” mang đậm sắc thái cổ điển và trang trọng. “Tràng giang” là từ Hán Việt, gợi lên hình ảnh dòng sông dài mênh mông, phảng phất phong vị Đường thi, làm người đọc liên tưởng đến những bài thơ tả cảnh sông nước của Lý Bạch, Đỗ Phủ.

Độc đáo nhất có lẽ là yếu tố cổ điển trong tứ thơ. Huy Cận đã mượn không gian hùng vĩ, đượm buồn của buổi chiều xuống để gửi gắm tâm sự của mình. Không gian càng mênh mông, rợn ngợp, con người càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, kiếp người lênh đênh giữa dòng đời không biết đi đâu về đâu. Đây là tứ thơ quen thuộc trong thơ cổ, đặc biệt là thơ Đường, với những hình ảnh như dòng sông dài mênh mông, bến vắng cô liêu, con thuyền lênh đênh xuôi ngược, cánh chim nhỏ chao nghiêng dưới ánh hoàng hôn. Những hình ảnh này tạo nên sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ và kiếp người bé nhỏ, cô đơn, làm nổi bật nỗi buồn, sự cô đơn của con người trước vũ trụ bao la.

Cuối cùng, nhà thơ sử dụng bút pháp “họa vân hiển nguyệt” (vẽ mây hiện trăng) của Đường thi để bày tỏ nỗi lòng của mình trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông. Cảnh vật trong bài thơ “Tràng giang” không chỉ đẹp mà còn mang ý nghĩa sâu sắc, phản ánh tâm trạng của tác giả. Bằng cách kết hợp yếu tố cổ điển với tâm trạng hiện đại, Huy Cận đã tạo nên một tác phẩm độc đáo, vừa mang đậm chất cổ điển, vừa thể hiện sâu sắc nỗi lòng của con người hiện đại.

Như vậy, “Tràng giang” là một bài thơ đầy tính cổ điển, nhưng lại chứa đựng những cảm xúc và tâm trạng rất hiện đại, làm nổi bật cái tôi buồn bã, cô đơn của Huy Cận trước cuộc đời. Những hình ảnh và bút pháp cổ điển đã được nhà thơ sử dụng một cách khéo léo để tạo nên một không gian nghệ thuật đầy sức gợi, khiến người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thấu hiểu được nỗi lòng của tác giả.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 2

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang

Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn và tâm tư. Trong đó, hình ảnh con thuyền là hình ảnh mang nhiều nét nghĩa sâu sắc hơn hẳn các hình ảnh khác.

Trong dân gian, con thuyền thường được sử dụng như biểu tượng cho người đàn ông. Tuy nhiên, trong thơ của Huy Cận, con thuyền lại là biểu tượng cho kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời.

Câu thơ “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” có thể hiểu theo nhiều cách, phản ánh sự đa nghĩa trong thơ Huy Cận. Thứ nhất, câu thơ có thể hiểu là khi thuyền về, nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. Hình ảnh này gợi lên một cảnh tượng đầy u buồn và tĩnh mịch, khi dòng sông mênh mang không chỉ mang theo thuyền mà còn chất chứa nỗi sầu vô tận.

Thứ hai, câu thơ có thể hiểu rõ hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. Khi thuyền về lại chốn cũ, nước ở lại với dòng sông, mang theo nỗi sầu. Nỗi sầu này không chỉ theo nước đi một nơi mà lan tỏa ra nhiều chốn khác nhau. Hình ảnh này làm nổi bật sự chia cắt và cô đơn, khi thuyền và nước, vốn là những thực thể gắn bó, lại phải chịu cảnh ly biệt.

Phép đối được Huy Cận sử dụng thành công trong câu thơ này để diễn tả sự chia cách và nỗi sầu nhân lên nhiều lần. Hình ảnh “thuyền” và “nước” được đối lập nhưng lại gắn bó mật thiết, tạo nên một cảm giác mâu thuẫn và sâu sắc về kiếp người. Thuyền tượng trưng cho con người, lênh đênh và không có nơi chốn cố định, còn nước tượng trưng cho dòng đời, không ngừng trôi chảy và mang theo những nỗi buồn, phiền muộn.

Như vậy, qua hình ảnh con thuyền và nước, Huy Cận đã thể hiện sâu sắc nỗi buồn và sự cô đơn của kiếp người. Bài thơ “Tràng giang” không chỉ là bức tranh tả cảnh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng, phản ánh nỗi lòng và những phiền muộn, cô đơn của tác giả.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 3

 

Phong cảnh thiên nhiên trong bài “Tràng giang” thật đẹp và hùng vĩ, nhưng lại mang nét đìu hiu, quạnh quẽ, và được phác họa một cách đơn sơ, rất gần gũi với cách miêu tả thiên nhiên trong các bài thơ cổ điển. Ngay từ hai câu thơ đầu: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp – Con thuyền xuôi mái nước song song”, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc một cảnh tượng sóng nước mênh mông, bát ngát, những làn sóng gợn tới tận chân trời xa xăm. Con sóng này không chỉ rộng mà còn kéo dài đến vô biên, tạo nên một cảm giác vô tận và mênh mông của dòng sông.

Trong hai câu tiếp theo: “Nắng xuống trời lên sâu chót vót – Sông dài trời rộng bến cô liêu”, không gian được mở rộng và đẩy lên cao thêm. Chiều sâu và chiều cao của không gian càng làm nổi bật ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Từ “chót vót” khắc họa chiều cao dường như vô tận, càng làm tăng thêm sự mênh mông của cảnh vật. Càng rộng, càng cao thì cảnh vật thiên nhiên càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài với bờ bến lẻ loi, xa vắng. Điều này không chỉ thể hiện nỗi buồn và nỗi sầu của tác giả trước cuộc đời và vũ trụ rộng lớn mà còn giúp người đọc cảm nhận được tâm trạng khao khát được gắn bó với cuộc đời, với con người, với quê hương đất nước của Huy Cận.

Hình ảnh thiên nhiên trong “Tràng giang” được miêu tả một cách tinh tế và giàu cảm xúc. Thiên nhiên hiện lên với sự mênh mông của sông nước, sự cao rộng của bầu trời và sự tĩnh lặng của không gian, tất cả hòa quyện lại để tạo nên một bức tranh đượm buồn và lặng lẽ. Nhưng đồng thời, qua những hình ảnh này, Huy Cận còn thể hiện được tâm trạng khao khát được gắn bó và hòa mình với cuộc đời. Nhà thơ không chỉ buồn vì sự cô đơn và lẻ loi, mà còn vì một niềm khao khát mãnh liệt được trở về với quê hương, được sống giữa cộng đồng, được cảm nhận tình người và tình quê hương sâu sắc.

Sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại trong cách miêu tả thiên nhiên đã tạo nên nét đặc sắc và độc đáo của “Tràng giang”. Thiên nhiên trong bài thơ vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của vũ trụ, vừa mang nét đìu hiu, quạnh quẽ của một tâm hồn cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời. Qua đó, Huy Cận đã gửi gắm những tâm tư, tình cảm sâu lắng của mình, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đẹp và đầy ý nghĩa, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 4

Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau đến vô cùng, vô tận, tầng tầng lớp lớp không dứt. Câu thơ sử dụng bút pháp “lấy động tả tĩnh” của văn học trung đại. Chuyển động của con sóng chỉ là “gợn” rất khẽ, rất nhỏ dường như tan đi trong cái không gian mênh mông của sông của trời. Con sóng đi cùng với tràng giang đã không còn là con sóng thực mà dường như mang một lớp nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi đến nỗi buồn trong tâm hồn con người trước sự dài rộng của không gian. Cùng với hình ảnh sóng nước là hình ảnh con thuyền đang lênh đênh xuôi theo dòng. Hình ảnh này như gợi đến kiếp sống nổi lênh của một lớp người bé nhỏ trong xã hội. Đây cũng là một thi liệu quen thuộc gần như đã trở thành chuẩn mực trong văn học. Trong thơ Đường, ta đã từng bắt gặp hình ảnh con thuyền và dòng sông đầy ám ảnh, trĩu nặng cái tình của người đưa tiễn:

Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu

(Lí Bạch)

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 5

“Tràng giang” là bài thơ làm nên tên tuổi của Huy Cận. Phương diện nghệ thuật đặc sắc chính là yếu tố tạo nên sự đặc biệt cho tác phẩm. Đầu tiên, ta phải kể đến bức tranh thiên nhiên sông nước hùng vĩ mà hoang sơ, vắng lặng đến khôn cùng được gửi gắm nỗi buồn triền miên. Chất liệu cổ điển của Đường thi được Huy Cận sử dụng một cách rất tài tình, thấm nhuần từ nhan đề đến hệ thống các hình ảnh thơ như con sông, cánh chim chiều, cồn cát, chợ chiều,… Nghệ thuật sử dụng từ láy “điệp điệp”, “song song” đem đến âm hưởng mênh mang tựa như nỗi buồn kéo dài từ cổ chí kim. Cách gieo vần chân “song” – “dòng”, “ngang” – “vàng”, “sa” – “nhà” cũng góp phần làm nên âm điệu hấp dẫn cho tác phẩm. Câu thơ cuối bài “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” đã bộc lộ trực tiếp cảm xúc của nhân vật trữ tình, tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Những yếu tố nghệ thuật trên đã làm nên đặc trưng của một hồn thơ “ảo não” có một không hai trong phong trào Thơ mới.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 6

Ở khổ thứ nhất bài thơ “Tràng Giang”, người đọc có thể cảm nhận được đặc sắc nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Tác giả sử dụng từ láy “điệp điệp” để gợi nỗi buồn thương da diết, miên man không dứt. Đặc biệt, sự đối lập giữa “củi một cành khô” với “lạc mấy dòng” đã nhấn mạnh sự chìm nổi, cô đơn của một cái tôi mất phương hướng. Quan trọng hơn, khổ thơ đầu còn nổi bật với cấu trúc đăng đối được tác giả sử dụng triệt để: “buồn điệp điệp” đối với “nước song song”, “thuyền về” đối với “nước lại”, “một cành khô” đối với “lạc mấy dòng”. Tất cả những dụng ý nghệ thuật đó đã góp phần diễn tả nỗi buồn trầm lắng của tác giả trước thiên nhiên. Không gian càng rộng lớn thì Huy Cận càng thấy rợn ngợp. Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ hướng tìm sự đồng cảm của con người. Thế nhưng hình ảnh con người cũng hiện lên rất thưa thớt. Vậy nên, đứng không gian bao la, thi nhân cảm thấy bị mất phương hướng và không biết rồi sẽ đi đâu về đâu.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 7

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Con thuyền thì nhỏ bé, hữu hạn mà dòng sông thì rộng lớn vô hạn. Cái hữu hạn đối với cái vô hạn dường như càng tô đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. Hơn thế nữa thuyền và nước vốn là những sự vật gắn bó nước chảy thuyền trôi vậy mà ở đây lại bị chia tách với hai chuyển động ngược chiều về hai phía khác nhau. Cặp từ láy “điệp điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã tô đậm ấn tượng về nỗi buồn mênh mang đang lan trên mặt nước, lại càng có tác dụng hơn khi tạo nên cấu trúc câu song ứng và rồi đến câu thơ thứ ba thì hai vế đối song ứng được dồn vào một câu thơ. “Thuyền về” đối với “nước lại” như nhấn vào cảm giác chia lìa đôi ngả. Và phải chăng vì sự chia lìa đó mà dòng sông tràng giang càng thêm u buồn lặng lẽ? Huy Cận lại chọn hình ảnh một cành củi khô đang trôi dạt giữa dòng nước mênh mang để thể hiện điều đó. Biện pháp đảo ngữ cùng cách ngắt nhịp 1/3/3 càng như nhấn mạnh hơn vào cành củi khô, nhỏ bé, khô héo, cạn kiệt sức sống. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi nguồn từ hình ảnh thực khi nhà thơ đứng ở bờ nam bến Chèm giữa mùa nước lớn, những cành cây khô trôi từ thượng nguồn về bến sông. Nhưng có lẽ nó còn mang một lớp nghĩa ẩn dụ khác. Nó gợi về một lớp người lúc bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này càng được làm rõ hơn với từ “lạc” dường như là sự trôi nổi vô định, mất phương hướng. Một cành củi khô héo không sức sống mà vẫn bị giằng xé, chao đảo giữa dòng nước mênh mang của cuộc đời. Nó gợi đến hình ảnh một lớp người như nhà thơ trong xã hội xưa, những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái tôi nhưng lại bế tắc, mất phương hướng trước hiện thực xã hội bấy giờ.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 8

Hình ảnh bèo dạt rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở đây cánh bèo dạt vẫn gợi lên những cảm nhận mới. Hình ảnh này diễn tả một cách thấm thía sự hợp tan, chia lìa của những kiếp người chứ không chỉ gợi sự nhỏ bé mong manh, trôi dạt như trong thơ ca truyền thống. Bèo dạt hàng nối hàng như bao kiếp người lênh đênh trên dòng nhân thế. Cảm nhận về sự lênh đênh, trôi dạt vô định của một kiếp người càng khiến nỗi sầu tăng lên gấp bội trong lòng thi nhân. Ở khổ thơ này Huy Cận còn nhắc đến những chuyến đò và những cây cầu. Đây là những hình ảnh gợi sự kết nối, giao lưu. Vậy mà tác giả nhắc tới những sự vật đó, không phải là để khẳng định cái có mà là để miêu tả cái không có, không tồn tại trong bức tranh sông nước tràng giang. Không cầu, không đò hay chính là không có sự kết nối của con người, hay chính là sự cô đơn, hoang vắng đến tột cùng? Trong sự vắng lặng đó không gian vẫn tiếp tục được trải ra đến vô cùng của bờ xanh với bãi vàng. Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn không đen tối nhưng lại chẳng thể làm cảnh sắc thêm tươi sáng, thêm sức sống. Dường như hai bờ sông là một thế giới tách biệt với những bờ bãi kia, những cánh bèo cũng vì thế mà chẳng biết trôi dạt về đâu. Trước một cảnh sắc như thế lòng người sao có thể vui tươi, háo hức. Hay cũng vì lòng người nhiều tâm tư trĩu nặng mà cái nhìn với cảnh cũng tấm đẫm ưu tư?

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 9

Đọc hai câu thơ cuối bài “Tràng Giang”, người đọc có thể cảm nhận được tình yêu nước thiết tha, thầm kín của Huy Cận. Nếu như nhà thơ Thôi Hiệu nhìn vào khói sóng trên sông để nhớ về quê hương thì với Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực trong lòng tác giả. Cách thể hiện tình cảm của nhà thơ mang màu sắc Đường thi nhưng mới mẻ hơn rất nhiều. Nỗi buồn trong thơ xưa là do thiên nhiên tạo ra, còn ở Huy Cận thì không cần đến thiên nhiên. Bởi lẽ tình yêu nước luôn thường trực trong trái tim nhà thơ. Qua đây, độc giả thấy được tấm lòng yêu nước chân thành, thiết tha của Huy Cận.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 10

Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp “hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 11

Trước cảnh sông Hồng mênh mang, rộng lớn, Huy Cận xúc động viết lên bài thơ “Tràng Giang”. Hình ảnh “bèo dạt” trong câu thơ “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng” gợi nên cho người đọc nhiều suy ngẫm. Chi tiết ước lệ “bèo” đã diễn tả thân phận, kiếp người chìm nổi. Đặc biệt những cánh bèo này lại trôi dạt không biết đi đâu về đâu. Cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn mà con người lại nhỏ bé nên chẳng thể tìm được sự đồng cảm. Ý thơ khiến ta liên tưởng đến chính thế hệ những nhà thơ Mới lúc bấy giờ. Họ như những cánh bèo kia chẳng biết sẽ đi đâu về đâu. Điều đó cũng được nhà thơ Xuân Diệu bày tỏ “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới/ Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối”. Vậy qua hình ảnh “bèo” người đọc có thể cảm nhận được cái tôi cô đơn, trống vắng của Huy Cận.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 12

“Tràng Giang” là bài thơ đặc sắc của Huy Cận. Qua tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận được sâu sắc nỗi sầu của tác giả trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh. Nhà thơ mở ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, bao la của Tràng Giang. Đứng trước không gian ấy, lòng người không khỏi cảm thấy rợn ngợp. Câu thơ “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” đã cho ta hình dung rõ hơn về nỗi lòng thi nhân. Thuyền và nước hiện lên trong mối quan hệ đầy nghịch lí. Ở đây thuyền và nước sóng đôi nhưng chẳng thể giao hòa. Bởi lẽ lúc này lòng tác giả cũng đang bộn bề những nỗi buồn khó hiểu. “Sầu trăm ngả” đó là nỗi sầu khỏa lấp cả không gian. Vậy qua đây, độc giả có thể cảm nhận được sự nhỏ bé cùng tâm trạng bất an của nhân vật trữ tình trước không gian rộng lớn.

Sự tâm đắc về một phương diện nổi bật của bài thơ Tràng Giang – mẫu 13

“Tràng Giang” là bài thơ với nhiều thi liệu mang màu sắc cổ điển. Đọc tác phẩm, ta bắt gặp những hình ảnh “con thuyền” vô cùng quen thuộc. Nhà thơ Hàn Mạc Tử cũng đã từng viết “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?/ Có chở trăng về kịp tối nay”. Con thuyền trên dòng sông vô định gợi liên tưởng đến những kiếp người nhỏ bé, vô danh. Không chỉ vậy, chi tiết “cánh bèo” là chất liệu quen thuộc trong thơ ca. Nó cũng cho ta hình dung rõ nét về sự lênh đênh, trôi nổi của những kiếp người gian truân. Những hình ảnh thơ quen thuộc đã góp phần diễn tả tâm trạng của Huy Cận. Và đó cũng chính là nỗi niềm của thế hệ các nhà thơ Mới lúc bấy giờ. Họ bị mất phương hướng vào cuộc đời không biết sẽ đi đâu về đâu. Vậy qua đây, người đọc có thể hiểu hơn về tâm trạng của Huy Cận lúc bấy giờ.