Soạn bài Kiến thức ngữ văn trang 11 tập 1 – Cánh diều

Soạn bài Kiến thức ngữ văn trang 11 tập 1 – Cánh diều

1. Truyện thơ dân gian

Soạn bài Kiến thức ngữ văn trang 11 tập 1 - Cánh diều

Truyện thơ dân gian phản ánh nét văn hóa đặc sắc qua cách sáng tác tập thể, ban đầu có thể do một người bắt đầu nhưng dần dà được cộng đồng làm giàu thêm. Phổ biến qua truyền khẩu, và ở những cộng đồng sớm biết chữ, truyện cũng được ghi chép lại bằng ngôn ngữ dân tộc. Truyện thơ dân gian không chỉ là văn học mà còn kết hợp nhiều yếu tố văn hóa khác, thường được biểu diễn qua các hình thức diễn xướng.

Truyện thơ dân gian kết hợp yếu tố tự sự (câu chuyện) và trữ tình (thơ), tạo thành hai loại chính: tự sự – trữ tình (nghiêng về tự sự) và trữ tình – tự sự (nghiêng về trữ tình). Các truyện này có thể phân loại theo đề tài như tình yêu, cuộc sống của những người nghèo khổ, hoặc khao khát công lý. Ví dụ, các truyện như “Tam Mẫu Ngọ” hay “Vượt biển” của dân tộc Tày thường tập trung vào đau khổ và bất công; trong khi đó, câu chuyện như “Tiễn dặn người yêu” hay “Chàng Lú – Nàng Ủa” thường xoay quanh chủ đề tình yêu.

Mô hình cốt truyện của truyện thơ dân gian thường bao gồm ba phần: gặp gỡ, thử thách hoặc tai biến, và đoàn tụ. Mỗi loại truyện có cấu trúc khác nhau tùy theo nội dung. Các truyện tự sự – trữ tình có thể giống như cổ tích, trong khi truyện trữ tình – tự sự thường có cấu trúc tình yêu bị thử thách bởi các rào cản gia đình.

Nhân vật trong truyện thơ dân gian thường được phân biệt rõ ràng giữa thiện và ác, được thể hiện qua diện mạo, hành động, lời nói và cả tâm trạng.

Ngôn ngữ của truyện thơ dân gian đậm chất dân ca, giàu cảm xúc và hình ảnh, sử dụng nhiều biện pháp tu từ, làm nổi bật giá trị văn hóa dân gian qua từng câu chuyện.

2. Truyện thơ Nôm

Soạn bài Kiến thức ngữ văn trang 11 tập 1 - Cánh diều

– Truyện thơ Nôm là truyện thơ được viết bằng chữ Nôm, phần lớn theo thể thơ lục bát. Đặc điểm nổi bật của truyện thơ Nôm là sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình. Truyện thơ Nôm vừa phản ánh cuộc sống qua một cốt truyện với hệ thống nhân vật, sự kiện, vừa bộc lộc thái độ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật, của tác giả.

– Căn cứ vào nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, có thể chia truyện thơ Nôm thành hai nhóm một cách tương đối: truyện thơ Nôm bình dân và truyện thơ Nôm bác học. Truyện thơ Nôm bình dân thường khuyết tên tác giả; thường lấy đề tài, cốt truyện từ truyện dân gian như cổ tích; ngôn ngữ nôm na, mộc mạc (Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa, Thạch Sanh,…). Truyện thơ Nôm bác học phần lớn có tên tác giả, hay lấy đề tài, cốt truyện từ những tác phẩm cổ của Trung Quốc nhưng được người viết sáng tạo lại một cách độc đáo (Truyện Kiều – Nguyễn Du, Hoa tiên – Nguyễn Huy Tự,…). Tuy nhiên, cũng có tác phẩm do tác giả sáng tạo, hư cấu (Sơ kính tân trang – Phạm Thái, Truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu). Truyện thơ Nôm bác học, thường trau chuốt, điêu luyện về nghệ thuật.

– Cốt truyện của truyện thơ Nôm nhìn chung được xây dựng theo mô hình khá ổn định với ba phần cơ bản: Gặp gỡ – Thử thách – Đoàn tụ.

– Nhân vật truyện thơ Nôm thường được phân theo loại chính diện và phản diện, tương ứng với chính – tà, thiện – ác, tốt – xấu. Nhân vật truyện thơ Nôm phần nhiều được miêu tả với những biểu hiện bên ngoài (diện mạo, hành động, ngôn ngữ đối thoại) hơn là với đời sống nội tâm (cảm xúc, suy tư, ngôn ngữ độc thoại) hơn là con người với đời sống nội tâm (cảm xúc, suy tư, ngôn ngữ, độc thoại). Tính cách nhân vật thường tĩnh tại, ít có sự vận động và phát triển, những tác động của hoàn cảnh có tác dụng làm rõ hơn tính cách đã được định hình.

Trong ba hình thức ngôn ngữ tự sự là ngôn ngữ gián tiếp (lời tác giả), ngôn ngữ trực tiếp (lời nhân vật), ngôn ngữ nửa trực tiếp (lời tác giả nhưng thể hiện cảm xúc, suy tư, giọng điệu nhân vật; lời tác giả và lời nhân vật đan xen vào nhau, khó lòng tách bạch), truyện thơ Nôm hay sử dụng ngôn ngữ gián tiếp. Người kể chuyện thường ở ngôi thứ ba.

Kiệt tác Truyện Kiều và một số truyện thơ Nôm xuất sắc vừa mang những đặc điểm chung của truyện thơ Nôm, vừa có những sáng tạo riêng mang ý nghĩa cách tân.

3. Biện pháp lặp cấu trúc

Lặp cấu trúc (còn gọi: lặp cú pháp, điệp cú pháp) là biện pháp tu từ, theo đó người viết (người nói) lặp lại cấu trúc của một cụm từ, một câu nhằm nhấn mạnh nội dung biểu đạt và tạo nhịp điệu, sự liên kết cho các câu văn, câu thơ. Ví dụ:

Chỉ cá liền với nước

Chỉ lúa liền với ruộng

Tiễn đưa em, thôi anh quay lại, em ơi!

(Tiễn dặn người yêu)

Trong ví dụ trên, việc lặp lại cấu trúc “Chỉ A liền với B” ở hai dòng thơ đầu vừa nhấn mạnh sự gắn bó giữa những sự vật khó chia lìa nhau vừa tạo sự liên kết giữa hai dòng thơ đem lại ấn tượng về một không gian trải dài.

Lặp cấu trúc thường được dùng nhiều trong phong cách ngôn ngữ chính luận và phong cách ngôn ngữ văn chương.