Đề bài: Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du của Ru-xô.

Bài làm

Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận, dưới hình thức “nói chơi”. Thiên phiếm luận ấy đặt trong khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết nên có nét đặc thù. Tác dụng của nó không ngoài mục đích làm cho nhân vật có được một chút thư giãn, thảnh thơi cả đầu óc và tâm hồn. Tuy chỉ là nói chơi mà không vô bổ. Đoạn văn chứng minh cho lợi ích của việc đi bộ. Ở vào thời điểm của thế kỉ XVIII, đây là một phát hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các phương tiện của ván minh (đi ngựa) hay bất cứ của các thành tựu khoa học nào (ôtô, tàu hoả, tàu thuỷ,…). Câu hỏi ở đây là cách nhà văn nói thật hay nói chơi, với người đọc cứ lởn vởn trong đầu. Cần tìm ra đáp số, phải theo dõi bài văn. Bài văn ấy lại như một cuộc đàm đạo, nghĩa là đối thoại với người nghe một cách từ tốn, hồn nhiên, không có gì nặng nề, áp đật. Mở đầu là một phát hiện bất ngờ và khái quát, rồi sau đó là những luận điểm chứng minh, mà chứng minh ấy lại nằm trong một hệ thống nói chơi nửa thực nửa đùa. Chính từ giọng điệu ấy đã tạo ra sức thuyết phục độc đáo không tìm thấy ở một tác phẩm nào trong thứ văn chương được gọi là nghiêm túc cả. Thì không đúng như thế hay sao?

Thứ nhất: đi bộ ngao du là cách mà con người được giải phóng, được tự do. Từ một khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt hằng ngày mà người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Nó là một tiếng reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người tìm ra một chân lí bất ngờ mà không mấy ai quan tâm, để ý. Một chữ “ta” chủ thể, chủ thể của ý thích, chủ thể của hành động, chủ thể của bản thân mình, chẳng phụ thuộc vào ai. Đoạn văn diễn tả được cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người được “cởi trói” khỏi những ràng buộc với xung quanh. “Cái tôi” của nhà văn lúc này là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi sổ lồng. Này nhé: về ý thích, ta “ưa”, ta muốn “nhiều ít thế nào thì tuỳ về hành động cũng tha hồ như thế. Nào “Ta quay sang phải, sang trái, ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay, ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh”. Câu văn, rồi cả đoạn vãn say người chính là ở tư thế tự do mà con người ta có được. Nó là nhận thức, nó cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chấp cánh bởi tự do. Cái duy nhất lúc này mà người viết phụ thuộc là chính bản thân, một bản thân không gì còn vướng cản để tha hồ “hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ”. Cách lập luận của đoạn văn vừa là song hành vừa là móc xích. Song hành trong cách bộc lộ một chủ thể tự do, móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp. Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý “Nếu tôi mệt…” đã lập tức có một “cái tôi” khác trả lời – trong quan hệ hô, ứng vang lên : “Nhưng Ê-min có mệt gì lắm đâu ; em to khoẻ ; và sao em có thể mệt được cơ chứ ?” Sự phân thân tách mình ra làm hai con người khác kết hợp với sự hội nhập (hỏi và đáp cũng chỉ là con người ấy) đã làm nên sắc thái đa dạng, sinh động của lời văn, không rơi vào tình thế phát ngôn một chiều, đơn điệu. Nó hấp dẫn được người đọc, người nghe. Nó như một tiếng reo thầm khi nhu cầu cần giãi bày, chia sẻ.

Đi bộ ngao du là cách mà con người trau dồi được tri thức một cách hổn nhiên ngoài trường lớp, ngoài sách vở thông thường. Thiên nhiên – qua cách đi bộ ngao du mà người ta tiếp cận – là một trường học lớn. Đó là cả một kho tàng. Những kiến thức về nông nghiệp, về tự nhiên như những ngọn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ mà con người khao khát. Cách học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những mô hình tượng trưng trong các phòng sưu lập của “các ngài tự nhiên học” đã đành, nó một trời một vực cả với các phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào hàng vua chúa. Bởi cái mà họ có tưởng là đủ nhưng chỉ là một nửa của sự thật mà thôi. Còn sự thật của thiên nhiên hùng vĩ phải có linh hồn của nó, nghĩa là nơi “mọi vật đều ở đúng chỗ” như Trái Đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà và sinh động, một sự sắp xếp mà không một nhà khoa học tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn.

Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khoẻ. Cách trình bày luận điểm này độc đáo ở chỗ: tác giả đặt nó trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc tăng cường sức khoẻ, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, tác dụng bổ sung, một cồng đôi việc. Câu văn vừa như một chuyển ý vừa như nêu vấn đề : “Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khoẻ được tăng cường, tính tình trở nên vui vẻ”. Câu văn tươi tắn như trạng thái cải lão hoàn đồng. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi, nay trẻ lại cùng gương mặt tươi cười đến mức chính người trong cuộc không còn nhận ra mình nữa. Đi bộ ngao du là một liều thuốc bổ, một loại tiên dược thần kì mà nào có tốn kém gì đâu ? Trong việc trình bày luận điểm thứ ba này, nhà vãn không tự thể nghiệm mình trong các cuộc đi bộ ngao du mà đứng ở một góc nhìn khách quan, quan sát. Người viết so sánh hai hình thức ngao du : đi xe và đi bộ. Trong thời đại khoa học văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Nhưng rốt cuộc cái giá của thành tựu khoa học kĩ thuật vãn minh cũng chỉ có thế. Còn đi bộ (trong trường hợp ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, cơ thể hơn nhiều. Đây là hai thái cực trái ngược nhau : “Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả”. Hai trạng thái ấy là sự vận động hay không vận động tạo ra, không có gì là lạ lùng khó hiểu cả. Nếu sức thuyết phục của đoạn văn ở góc độ quan sát nói trên được dễ dàng thừa nhận thì đoạn viết tiếp theo bằng một giọng điệu hân hoan, dù là chủ quan, nó cũng có rất nhiều khả năng được chia sẻ, đổng cảm. Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia thật thanh thản, cởi mở, tươi cười: “Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà ! Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế ! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn ! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn”. Điều kiện ăn ngủ tuy thật đơn sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không ngăn cản được những khoan khoái tự thân, ở cơ thể và tâm hồn mà cuộc đi bộ ngao du đem lại. Cuộc đời ta được nối tiếp nhau bằng những cuộc đi bộ ngao du như thế chắc sẽ trẻ mãi không già.

Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường tránh cho nó biến thành giọng điệu khoa trương, ồn ào, quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ở mục đích có chừng mực của nó mà thôi. Không thể tung hô nó trong tất cả các loại hành trình: “Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm ; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ”. Kết như thế là khéo, là rất thiết thực, vừa tầm. Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không kém và không hơn như thế.

Thông qua một bài văn được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện ra một con người có văn hoá. Ây là một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên. Nhưng khi gắn bài văn vào hoàn cảnh đời tư của tác giả không nên chỉ nhấn mạnh một chiểu, chẳng hạn, khi còn thơ ấu, ông thường bị chủ xưởng chửi mắng đánh đập,… nên khao khát tự do, hoặc cũng từ nhỏ vì không được học hành nên ông khao khát kiến thức. Nếu theo cái đà lập luận đó thì ông thích tăng cường thể lực vì từ bé đã bệnh tật, ốm yếu hay sao ? Thêm nữa, bản thân việc đi bộ ngao du vừa có ý nghĩa khách quan của chính nó (không loại trừ một ai, ở bất cứ đẳng cấp xã hội nào) vừa có ý nghĩa chú quan đối với từng con người cụ thể. Và như thế, lấy tiêu chí chủ quan mà xem xét vấn đề rõ ràng là khiên cưỡng, không nên. Ngoài vấn đề nêu trên, cách sử dụng đại từ nhân xưng là “ta” và “tôi” chẳng qua cũng chỉ là thay đổi cách xưng hô, làm cho diễn đạt thêm phần linh hoạt, sinh động bằng việc thay đổi cách nhìn. Vẫn chi là một “cái tôi” khi tách ra, lúc nhập lại với người đọc, người nghe như một người tri kỉ dồng hành. Văn nghị luận mà giống với kể chuyện, gần gũi với mọi người chính là vì thế.

Đề bài: Phân tích bài “Đi bộ ngao du” của Ru-xô.

Bài làm 1

Ru-xô là một nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp. Ông có rất nhiều tác phẩm hay làm say mê độc giả trên toàn thế giới, một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông mà ta có thể kể tên, đó chính là tác phẩm “Ê- min hay về giáo dục”. Cuốn tiểu thuyết này có nội dung bàn về chuyện giáo dục một em bé tên là Ê- min, nhà văn đã tưởng tượng và đặt tên- từ khi mới sinh ra đời đến tuổi trưởng thành. Trong chương trình giáo dục, chúng ta cũng được học một trích đoạn của tác phẩm này là “Đi bộ ngao du”.

Trong trích đoạn “Đi bộ ngao du”, nhà văn Ru-xô đã chỉ ra lợi ích của việc đi bộ, cũng như những lợi thế của việc đi bộ so với đi ngựa cũng như dùng các phương tiện khác. Trước hết, đi bộ có thể đi mọi nơi mà ta mong muốn, không phải lệ thuộc vào ai, vào phương tiện gì: ” Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều hay ít thế nào là tùy”. Như vậy, việc đi bộ khiến cho ta được tự do về con người, được làm theo những ý muốn của mình, đây chính là lợi ích lớn nhất của việc đi bộ ngao du. Và đã là ngao du thì yếu tố chủ động phải được đặt lên hàng đầu, đi ngựa sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đường xá, sức khỏe của ngựa, không phải phụ thuộc vào những gã phu trạm.

Đi bộ ngao du thì ta không bị phụ thuộc vào bất cứ thứ gì, bất kì cái gì, ta được tự do về con người, tự do về tâm hồn, làm toàn bộ những việc theo ý thích: ” Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả các khía cạnh….” . Và quan trọng nhất là không bị lệ thuộc: “Tôi chẳng phải phụ thuộc vào những con ngựa hay những gã phu trạm. Đi bộ ngao du ta sẽ có cơ hôi khám phá những điều mới mẻ, có thể tự tìm cho mình những con đường riêng biệt, điều này rất phù hợp với những con người ưa tìm tòi, thử thách: “Tôi chẳng cần chọn những lối đi có sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua bất cứ nơi nào con người có thể đi qua; tôi xem tất cả những gì con người có thể xem….”

Đi bộ ngao du có thể thỏa sức khám phá, tìm tòi, nhưng một lúc nào đó mệt thì lại có thể dùng ngựa: ” Nếu do thời tiết xấu không đi bộ được và thấy chán rồi, lúc đó tôi đi ngựa” tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ của tác giả. Còn đối với nhân vật của mình, cậu bé Ê – min thì lại khác, cậu kiên cường hơn, bản lĩnh hơn rất nhiều, nếu mệt em sẽ tìm một thứ gì đó để giải trí, hoặc tìm lấy công việc để tay làm việc còn đôi chân được nghỉ ngơi. Sau khi nghỉ ngơi, đôi chân bớt mỏi mệt thì em lại có thể tiếp tục chuyến hành trình của mình: “…Ở chốn nào em cũng có thứ để giải trí. Em vào nhà một người thợ làm việc; em vận động hai cánh tay để đôi bàn chân nghỉ ngơi”.

Luận điểm thứ hai mà nhà văn Ru-xô nêu để minh chứng cho quan điểm đi bộ ngao du là sáng suốt, hữu ích. Đó chính là thông qua việc đi bộ thì ta có thể có cơ hội để trau dồi những vốn tri thức vốn vô hạn. Nhà văn nêu ra những dẫn chứng cụ thể, đó là những tấm gương của việc đi bộ ngao du như: Ta – lét, Pla- tông và Pi- ta- go. Họ đều là những nhà toán học, nhà triết học nổi tiếng của thế giới. Thông qua việc đi bộ, họ phát hiện ra nhiều điều lí thú, tiền đề cho những phát minh, những quan điểm vĩ đại. Đi bộ ngao du, vừa là để du ngoạn, thưởng thức cảnh sắc của tự nhiên mà thông qua vùng đất mình đi qua, ta có thể có thêm cho mình những kinh nghiệm, học hỏi thêm được nhiều thứ lí thú, có ích phù hợp với những vấn đề mà mình quan tâm.

Ê- min nhờ vào việc đi bộ mà có những kiến thức sâu rộng, mang về nhiều thứ hay ho trên đường đi để về nhà làm thành một bộ sưu tập : “Nhưng phòng sưu tập của Ê- min thì phong phú hơn phòng làm việc của các vua chúa, phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều đúng chỗ của nó; nhà tự nhiên học làm công việc chăm sóc đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy…”

Ngoài ra, việc đi bộ ngao du còn rất có lợi cho sức khỏe. Thông qua việc đi bộ, các cơ bắp trên cơ thể có dịp phát triển, từ đó mà sức khỏe của con người cũng có thể được cải thiện: ” sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ”, hòa mình vào trong không khí của tự nhiên, con người cũng sống lạc quan hơn, tự tại hơn từ đó yêu đời và luôn vui vẻ, khác với những kẻ luôn ngồi trong xe ngựa nhưng cả ngày cáu kỉnh, không tìm được mục đích sống, cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán và vô nghĩa.

Như vậy, đoạn trích “Đi bộ ngao du” của nhà văn Ru-xô đã đưa ra những luận điểm chặt chẽ, chứng minh cho những lợi ích của việc đi bộ ngao du. Những lập luận này hết sức chặt chẽ, có sức thuyết phục lại có những dẫn chứng cụ thể, sinh động trong thực tiễn, và dẫn chứng từ chính bản thân của tác giả. Thông qua đoạn trích này ta cũng thấy được Ru-xô còn là một nhà văn giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.

Đề bài: Phân tích bài “Đi bộ ngao du” của Ru-xô.

Bài làm 1

Ru-xô là một nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp. Ông có rất nhiều tác phẩm hay làm say mê độc giả trên toàn thế giới, một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông mà ta có thể kể tên, đó chính là tác phẩm “Ê- min hay về giáo dục”. Cuốn tiểu thuyết này có nội dung bàn về chuyện giáo dục một em bé tên là Ê- min, nhà văn đã tưởng tượng và đặt tên- từ khi mới sinh ra đời đến tuổi trưởng thành. Trong chương trình giáo dục, chúng ta cũng được học một trích đoạn của tác phẩm này là “Đi bộ ngao du”.

Trong trích đoạn “Đi bộ ngao du”, nhà văn Ru-xô đã chỉ ra lợi ích của việc đi bộ, cũng như những lợi thế của việc đi bộ so với đi ngựa cũng như dùng các phương tiện khác. Trước hết, đi bộ có thể đi mọi nơi mà ta mong muốn, không phải lệ thuộc vào ai, vào phương tiện gì: ” Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều hay ít thế nào là tùy”. Như vậy, việc đi bộ khiến cho ta được tự do về con người, được làm theo những ý muốn của mình, đây chính là lợi ích lớn nhất của việc đi bộ ngao du. Và đã là ngao du thì yếu tố chủ động phải được đặt lên hàng đầu, đi ngựa sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đường xá, sức khỏe của ngựa, không phải phụ thuộc vào những gã phu trạm.

Đi bộ ngao du thì ta không bị phụ thuộc vào bất cứ thứ gì, bất kì cái gì, ta được tự do về con người, tự do về tâm hồn, làm toàn bộ những việc theo ý thích: ” Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả các khía cạnh….” . Và quan trọng nhất là không bị lệ thuộc: “Tôi chẳng phải phụ thuộc vào những con ngựa hay những gã phu trạm. Đi bộ ngao du ta sẽ có cơ hôi khám phá những điều mới mẻ, có thể tự tìm cho mình những con đường riêng biệt, điều này rất phù hợp với những con người ưa tìm tòi, thử thách: “Tôi chẳng cần chọn những lối đi có sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua bất cứ nơi nào con người có thể đi qua; tôi xem tất cả những gì con người có thể xem….”

Đi bộ ngao du có thể thỏa sức khám phá, tìm tòi, nhưng một lúc nào đó mệt thì lại có thể dùng ngựa: ” Nếu do thời tiết xấu không đi bộ được và thấy chán rồi, lúc đó tôi đi ngựa” tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ của tác giả. Còn đối với nhân vật của mình, cậu bé Ê – min thì lại khác, cậu kiên cường hơn, bản lĩnh hơn rất nhiều, nếu mệt em sẽ tìm một thứ gì đó để giải trí, hoặc tìm lấy công việc để tay làm việc còn đôi chân được nghỉ ngơi. Sau khi nghỉ ngơi, đôi chân bớt mỏi mệt thì em lại có thể tiếp tục chuyến hành trình của mình: “…Ở chốn nào em cũng có thứ để giải trí. Em vào nhà một người thợ làm việc; em vận động hai cánh tay để đôi bàn chân nghỉ ngơi”.

Luận điểm thứ hai mà nhà văn Ru-xô nêu để minh chứng cho quan điểm đi bộ ngao du là sáng suốt, hữu ích. Đó chính là thông qua việc đi bộ thì ta có thể có cơ hội để trau dồi những vốn tri thức vốn vô hạn. Nhà văn nêu ra những dẫn chứng cụ thể, đó là những tấm gương của việc đi bộ ngao du như: Ta – lét, Pla- tông và Pi- ta- go. Họ đều là những nhà toán học, nhà triết học nổi tiếng của thế giới. Thông qua việc đi bộ, họ phát hiện ra nhiều điều lí thú, tiền đề cho những phát minh, những quan điểm vĩ đại. Đi bộ ngao du, vừa là để du ngoạn, thưởng thức cảnh sắc của tự nhiên mà thông qua vùng đất mình đi qua, ta có thể có thêm cho mình những kinh nghiệm, học hỏi thêm được nhiều thứ lí thú, có ích phù hợp với những vấn đề mà mình quan tâm.

Ê- min nhờ vào việc đi bộ mà có những kiến thức sâu rộng, mang về nhiều thứ hay ho trên đường đi để về nhà làm thành một bộ sưu tập : “Nhưng phòng sưu tập của Ê- min thì phong phú hơn phòng làm việc của các vua chúa, phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều đúng chỗ của nó; nhà tự nhiên học làm công việc chăm sóc đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy…”

Ngoài ra, việc đi bộ ngao du còn rất có lợi cho sức khỏe. Thông qua việc đi bộ, các cơ bắp trên cơ thể có dịp phát triển, từ đó mà sức khỏe của con người cũng có thể được cải thiện: ” sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ”, hòa mình vào trong không khí của tự nhiên, con người cũng sống lạc quan hơn, tự tại hơn từ đó yêu đời và luôn vui vẻ, khác với những kẻ luôn ngồi trong xe ngựa nhưng cả ngày cáu kỉnh, không tìm được mục đích sống, cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán và vô nghĩa.

Như vậy, đoạn trích “Đi bộ ngao du” của nhà văn Ru-xô đã đưa ra những luận điểm chặt chẽ, chứng minh cho những lợi ích của việc đi bộ ngao du. Những lập luận này hết sức chặt chẽ, có sức thuyết phục lại có những dẫn chứng cụ thể, sinh động trong thực tiễn, và dẫn chứng từ chính bản thân của tác giả. Thông qua đoạn trích này ta cũng thấy được Ru-xô còn là một nhà văn giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.

Đề bài: Phân tích bài “Đi bộ ngao du” của Ru-xô.

Bài làm 2

Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận, dưới hình thức “nói chơi”. Thiên phiếm luận ấy đặt trong khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết nên có nét đặc thù. Tác dụng của nó không ngoài mục đích làm cho nhân vật có được một chút thư giãn, thảnh thơi cả đầu óc và tâm hồn. Tuy chỉ là nói chơi mà không vô bổ. Đoạn văn chứng minh cho lợi ích của việc đi bộ. Ở vào thời điểm của thế kỉ XVIII, đây là một phát hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các phương tiện của ván minh (đi ngựa) hay bất cứ của các thành tựu khoa học nào (ôtô, tàu hoả, tàu thuỷ,…). Câu hỏi ở đây là cách nhà văn nói thật hay nói chơi, với người đọc cứ lởn vởn trong đầu. Cần tìm ra đáp số, phải theo dõi bài văn. Bài văn ấy lại như một cuộc đàm đạo, nghĩa là đối thoại với người nghe một cách từ tốn, hồn nhiên, không có gì nặng nề, áp đật. Mở đầu là một phát hiện bất ngờ và khái quát, rồi sau đó là những luận điểm chứng minh, mà chứng minh ấy lại nằm trong một hệ thống nói chơi nửa thực nửa đùa. Chính từ giọng điệu ấy đã tạo ra sức thuyết phục độc đáo không tìm thấy ở một tác phẩm nào trong thứ văn chương được gọi là nghiêm túc cả. Thì không đúng như thế hay sao?

Thứ nhất: đi bộ ngao du là cách mà con người được giải phóng, được tự do. Từ một khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt hằng ngày mà người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Nó là một tiếng reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người tìm ra một chân lí bất ngờ mà không mấy ai quan tâm, để ý. Một chữ “ta” chủ thể, chủ thể của ý thích, chủ thể của hành động, chủ thể của bản thân mình, chẳng phụ thuộc vào ai. Đoạn văn diễn tả được cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người được “cởi trói” khỏi những ràng buộc với xung quanh. “Cái tôi” của nhà văn lúc này là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi sổ lồng. Này nhé: về ý thích, ta “ưa”, ta muốn “nhiều ít thế nào thì tuỳ về hành động cũng tha hồ như thế. Nào “Ta quay sang phải, sang trái, ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay, ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh”. Câu văn, rồi cả đoạn vãn say người chính là ở tư thế tự do mà con người ta có được. Nó là nhận thức, nó cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chấp cánh bởi tự do. Cái duy nhất lúc này mà người viết phụ thuộc là chính bản thân, một bản thân không gì còn vướng cản để tha hồ “hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ”. Cách lập luận của đoạn văn vừa là song hành vừa là móc xích. Song hành trong cách bộc lộ một chủ thể tự do, móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp. Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý “Nếu tôi mệt…” đã lập tức có một “cái tôi” khác trả lời – trong quan hệ hô, ứng vang lên : “Nhưng Ê-min có mệt gì lắm đâu ; em to khoẻ ; và sao em có thể mệt được cơ chứ ?” Sự phân thân tách mình ra làm hai con người khác kết hợp với sự hội nhập (hỏi và đáp cũng chỉ là con người ấy) đã làm nên sắc thái đa dạng, sinh động của lời văn, không rơi vào tình thế phát ngôn một chiều, đơn điệu. Nó hấp dẫn được người đọc, người nghe. Nó như một tiếng reo thầm khi nhu cầu cần giãi bày, chia sẻ.

Đi bộ ngao du là cách mà con người trau dồi được tri thức một cách hổn nhiên ngoài trường lớp, ngoài sách vở thông thường. Thiên nhiên – qua cách đi bộ ngao du mà người ta tiếp cận – là một trường học lớn. Đó là cả một kho tàng. Những kiến thức về nông nghiệp, về tự nhiên như những ngọn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ mà con người khao khát. Cách học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những mô hình tượng trưng trong các phòng sưu lập của “các ngài tự nhiên học” đã đành, nó một trời một vực cả với các phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào hàng vua chúa. Bởi cái mà họ có tưởng là đủ nhưng chỉ là một nửa của sự thật mà thôi. Còn sự thật của thiên nhiên hùng vĩ phải có linh hồn của nó, nghĩa là nơi “mọi vật đều ở đúng chỗ” như Trái Đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà và sinh động, một sự sắp xếp mà không một nhà khoa học tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn.

Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khoẻ. Cách trình bày luận điểm này độc đáo ở chỗ: tác giả đặt nó trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc tăng cường sức khoẻ, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, tác dụng bổ sung, một cồng đôi việc. Câu văn vừa như một chuyển ý vừa như nêu vấn đề : “Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khoẻ được tăng cường, tính tình trở nên vui vẻ”. Câu văn tươi tắn như trạng thái cải lão hoàn đồng. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi, nay trẻ lại cùng gương mặt tươi cười đến mức chính người trong cuộc không còn nhận ra mình nữa. Đi bộ ngao du là một liều thuốc bổ, một loại tiên dược thần kì mà nào có tốn kém gì đâu ? Trong việc trình bày luận điểm thứ ba này, nhà vãn không tự thể nghiệm mình trong các cuộc đi bộ ngao du mà đứng ở một góc nhìn khách quan, quan sát. Người viết so sánh hai hình thức ngao du : đi xe và đi bộ. Trong thời đại khoa học văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Nhưng rốt cuộc cái giá của thành tựu khoa học kĩ thuật vãn minh cũng chỉ có thế. Còn đi bộ (trong trường hợp ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, cơ thể hơn nhiều. Đây là hai thái cực trái ngược nhau : “Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả”. Hai trạng thái ấy là sự vận động hay không vận động tạo ra, không có gì là lạ lùng khó hiểu cả. Nếu sức thuyết phục của đoạn văn ở góc độ quan sát nói trên được dễ dàng thừa nhận thì đoạn viết tiếp theo bằng một giọng điệu hân hoan, dù là chủ quan, nó cũng có rất nhiều khả năng được chia sẻ, đổng cảm. Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia thật thanh thản, cởi mở, tươi cười: “Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà ! Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế ! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn ! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn”. Điều kiện ăn ngủ tuy thật đơn sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không ngăn cản được những khoan khoái tự thân, ở cơ thể và tâm hồn mà cuộc đi bộ ngao du đem lại. Cuộc đời ta được nối tiếp nhau bằng những cuộc đi bộ ngao du như thế chắc sẽ trẻ mãi không già.

Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường tránh cho nó biến thành giọng điệu khoa trương, ồn ào, quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ở mục đích có chừng mực của nó mà thôi. Không thể tung hô nó trong tất cả các loại hành trình: “Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm ; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ”. Kết như thế là khéo, là rất thiết thực, vừa tầm. Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không kém và không hơn như thế.

Thông qua một bài văn được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện ra một con người có văn hoá. Ây là một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên. Nhưng khi gắn bài văn vào hoàn cảnh đời tư của tác giả không nên chỉ nhấn mạnh một chiểu, chẳng hạn, khi còn thơ ấu, ông thường bị chủ xưởng chửi mắng đánh đập,… nên khao khát tự do, hoặc cũng từ nhỏ vì không được học hành nên ông khao khát kiến thức. Nếu theo cái đà lập luận đó thì ông thích tăng cường thể lực vì từ bé đã bệnh tật, ốm yếu hay sao ? Thêm nữa, bản thân việc đi bộ ngao du vừa có ý nghĩa khách quan của chính nó (không loại trừ một ai, ở bất cứ đẳng cấp xã hội nào) vừa có ý nghĩa chú quan đối với từng con người cụ thể. Và như thế, lấy tiêu chí chủ quan mà xem xét vấn đề rõ ràng là khiên cưỡng, không nên. Ngoài vấn đề nêu trên, cách sử dụng đại từ nhân xưng là “ta” và “tôi” chẳng qua cũng chỉ là thay đổi cách xưng hô, làm cho diễn đạt thêm phần linh hoạt, sinh động bằng việc thay đổi cách nhìn. Vẫn chi là một “cái tôi” khi tách ra, lúc nhập lại với người đọc, người nghe như một người tri kỉ dồng hành. Văn nghị luận mà giống với kể chuyện, gần gũi với mọi người chính là vì thế.

Đề bài: Phân tích bài “Đi bộ ngao du” của Ru-xô.

Bài làm 3

Ru-xô là nhà văn Pháp nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông sinh ra trong một gia đình,nghèo, cha làm thợ sửa đồng hồ. Mồ côi mẹ sớm nên ông chỉ được đi học từ năm mười hai đến năm mười bốn tuổi, sau đó rời gia đình, lang thang nhiều nơi, trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Nhờ thông minh, có năng khiếu bẩm sinh và chịu khó học hỏi, Ru-xô đã trở thành nhà triết học, nhà văn có tên tuổi. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như: Luận về khoa học và nghệ thuật (1750), Luận về sự bất bình đẳng (1755), tiểu thuyết Giuy-li hay nàng Hê-lôi-dơ mới (1761), tiểu thuyết Ê-min hay về giáo dục (1762), Những mơ mộng của một người dạo chơi cô độc (1777 1 1778)…

Luận điểm triết học mà Ru-xô hay bàn tới là sự đối lập giữa con người tự nhiên và con người xã hội. Theo ông, con người sinh ra vốn lương thiện, tự do và sung sướng, nhưng xã hội phong kiến đã biến con người thành độc ác, nô lệ và khổ cực. Triều đình phong kiến Pháp thế kỉ XVIII thẳng tay đàn áp những tư tưởng tiến bộ của Ru-xô, ông bị truy nã khắp nơi. Mười một năm sau khi ông qua đời, cách mạng tư sản 1789 đã đánh đổ chế độ phong kiến suy tàn tổn tại lâu đời. Tư tưởng dân chủ tiến bộ của Ru-xô được đánh giá rất cao. Tượng bán thân Ru-xô được chính phủ Cách mạng tư sản Pháp trân trọng đặt trong phòng họp của Quốc hội.

Ê-min hay Về giáo dục là một thiên luận văn tiểu thuyết, nội dung đề cập đến phương pháp giáo dục một con người từ khi mới ra đời cho đến lúc trưởng thành. Nhà văn đặt tên cho nhân vật là Ê-min và thầy giáo đảm nhiệm công việc giáo dục chính là ông. Tác phẩm chia thành năm quyển, tương ứng với năm giai đoạn liên tiếp của quá trình giáo dục.

Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Ê-min mới ra đời cho đến khoảng hai, ba tuổi. Nhiệm vụ của người giáo dục là làm sao cho cơ thể em bé được phát triển tự nhiên. Giai đoạn thứ hai từ khi Ê-min lên bốn, lên năm cho đến mười hai tuổi. Đây là giai đoạn giáo dục cho em một số nhận thức bước đầu bằng hình thức giáo dục nhẹ nhàng, không gò bó. Tiếp theo là giai đoạn thứ ba kéo dài khoảng ba năm, Ê-min sẽ được trang bị những kiến thức khoa học hữu ích, nhưng không phải là kiến thức trừu tượng trong sách vở mà là kiến thức cụ thể tiếp thu được từ thực tiễn sinh động của cuộc sống và thiên nhiên. Năm mười lăm tuổi, Ê-min học một nghề lao động chân tay và gia sư đã hướng dẫn em học nghề thợ mộc. Giai đoạn thứ tư từ năm mười sáu đến năm hai mươi tuổi, Ê-min được giáo dục về đạo đức và tôn giáo. Giai đoạn thứ năm, Ê-min đã trưởng thành. Anh gặp Xô-phi, một cô gái nết na được giáo dục từ bé theo những nguyên tắc tương tự. Hai người yêu nhau. Trước khi cưới, Ê-min đi du lịch hai năm để cho đạo đức và nghị lực được thử thách và cũng là dịp mở mang hiểu biết về xã hội rộng lớn xung quanh.

Bài Đi bộ ngao du trích trong quyển V – quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay Về giáo dục. Văn bản này do tác giả sách giáo khoa dịch và đặt nhan đề.

Để thuyết phục mọi người rằng nếu ngao du thì nên đi bộ, tác giả đã lập luận bằng ba đoạn văn, mỗi đoạn trình bày một luận điểm: Đi bộ ngao du được tự do thưởng ngoạn. Đi bộ ngao du là dịp để trau dồi, mở mang tri thức. Đi bộ ngao du làm cho tính tình trở nên vui vẻ.

Tác giả đã dùng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết phục bạn đọc về lợi ích của việc đi bộ ngao du. Lập luận của bài văn hết sức chặt chẽ. Tác giả lấy thực tiễn sinh động để chứng minh rằng muốn ngao du cần phải đi bộ. Bài văn còn thể hiện rõ Ru-xô là một con người giản dị nhưng sâu sắc, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên.

Ở đoạn thứ nhất, tác giả nhấn mạnh rằng đi bộ ngao du là cách mà con người được tự do đến mức tối đa. Từ một việc làm bình thường hằng ngày, tác giả đã nâng lên thành một mục đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Trong đoạn văn này, tác giả chủ yếu sử dụng câu trần thuật để kể lại những điều thú vị của người ngao du bằng cách đi bộ.

Tác giả kể chuyện bằng ngôi thứ nhất và lấy những kinh nghiệm của bản thân trong việc đi bộ ngao du để thuyết phục mọi người: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ. Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay… một dòng sông…; một khu rừng rậm; một hang động…; một mỏ đá… các khoáng sản… Xem tất cả những gì con người có thể xem…; chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm. Hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ… Ta làm chủ ý thích, làm chủ hành động, làm chủ bản thân, không phụ thuộc vào ai.

Khi quả quyết rằng: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ, tác giả khẳng định mình là người ưa thích ngao du bằng đi bộ và muốn mọi người cũng nên thích đi bộ ngao du như mình. Các cụm từ ta ưa đi, ta thích dừng, ta muốn hoạt động, tôi hưởng thụ xuất hiện liên tục để nhấn mạnh cảm giác tự do cá nhân; từ đó tác giả muốn thuyết phục bạn đọc tin vào lợi ích to lớn của việc đi bộ ngao du. Đó là cách tốt nhất để con người hòa hợp với thiên nhiên tuyệt mĩ.

Căn cứ vào lời lẽ phân tích, giảng giải của vị gia sư cho cậu bé Ê-min thì đi bộ ngao du quả là thú vị nhất trần đời, vì nó đem lại cho con người cảm giác sảng khoái của tự do tuyệt đối. Mà trên đời, còn gì sung sướng hơn được tự do? Ta là chủ bản thân ta, không bị lệ thuộc hay chi phối bởi bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nhờ vậy mà ta thỏa mãn được những nhu cầu đặt ra trước chuyến đi.

Ở đoạn thứ hai, tác giả chứng minh đi bộ ngao du là dịp để con người trau dồi, mở mang tri thức:

Đi bộ ngao du là đi như Ta-lét, Pla-tông và Pi-ta-go. Tôi khó lòng hiểu nổi một triết gia có thể quyết định ngao du cách khác mà không xem xốt những tài nguyên nơi mình giẫm chân lên và trải đất phô bày phong phú ra trước mắt.

Đi bộ ngao du là cách để con người nâng cao tẩm hiểu biết, bồi đắp vốn sống thực tế. Thiên nhiên và cuộc đời là một trường học lớn, là kho tàng kiến thức phong phú, đa dạng: Ai là người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại không muốn biết các sản vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy ? Ai là người có chút ít hứng thú với tự nhiên học mà lại có thể quyết định đi ngang một khoảnh đất mà không xem xét nó, một lèn đá mà không ghè vài mẩu, những quả núi mà không sưu tập hoa lá, những hòn sỏi mà không tìm các hóa thạch!

Kiến thức về mọi lĩnh vực của tự nhiên giống như những ngọn gió mát lành ùa vào tâm hồn và trí tuệ con người. Học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên khác xa với cách học giáo điều, hình thức trong trường lớp, qua sách vở. Thiên nhiên sống động không giống với những mô hình chết cứng trưng bày trong phòng sưu tập của các ngài tự nhiên học và các phòng sưu tập sang trọng của vua chúa cũng không thể so sánh. Bởi những thứ mà họ có trong tay cứ tưởng là đầy đủ thật ra chỉ là một phần rất nhỏ của thiên nhiên mà thôi. Còn sự vật chỉ thực sự có linh hồn khi ở đúng chỗ mà Tạo hóa đã an bài cho nó trong một tổng thể thiên nhiên hài hòa và sinh động, một sự sắp xếp thần tình mà không một nhà khoa học tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn.

Vốn tôn thờ chủ nghĩa tự nhiên nên Ru-xô đả kích không thương tiếc thứ chủ nghĩa tự nhiên giả hiệu của giai cấp phong kiến quý tộc đương thời: … các ngài nghiên cứu tự nhiên học trong các phòng sưu tập; họ có các thứ linh tinh; họ biết gọi tên nhưng chẳng có một ý niệm gì về tự nhiên cả.

Nhưng phòng sưu tập của Ê-min thì phong phú hơn các phòng sưu tập của vua chúa; phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều ở đúng chỗ của nó… mọi thứ đâu ra đấy. Đô-băng-tông chắc cũng không thể làm tốt hơn.

Ru-xô mỉa mai những kẻ nghiên cứu tự nhiên giả hiệu và khẳng định Ê-min giàu có hơn cả vua chúa vì anh có bộ sưu tập khổng lồ vô giá là cả trái đất.

Ở đoạn cuối, Ru-xô nhận xét: đi bộ ngao du có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe và tinh thần:

Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy. Không kể sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ. Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng buồn bã, của kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả. Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà! Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn! Khi ta muốn đến một nơi nào đó, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ.

Đi bộ ngao du làm cho con người phát triển toàn diện. Chân đi, mắt nhìn, tai nghe, óc phân tích, nhận xét và trái tim cảm thụ những điều mới lạ, những cảnh đẹp gặp trên đường. Thân thể được rèn luyện, thử thách, sẽ trở nên mạnh mẽ và tâm hồn rộng mở lộng gió bốn phương. Lúc ấy, ta sẽ cảm thấy cuộc đời xung quanh hấp dẫn biết chừng nào, đáng sống biết chừng nào!

Đối với Ru-xô, tự do là mực tiêu quan trọng hàng đầu. Suốt đời, ông đấu tranh chống lại chế độ phong kiến để đem lại quyền sống tự do cho mọi người.

Thuở nhỏ, Ru-xô không được học hành nên ông càng khát khao hiểu biết. Ông luôn nỗ lực tự học, Lập luận sắc sảo của ông không phải lí thuyết tiếp thu trong sách vở mà là kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn cuộc sống muôn màu.

Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi theo quy luật thời gian sẽ được hồi xuân, gương mặt tươi tắn, thân thể tràn đầy sức sống. Đi bộ ngao du là một liều thuốc bổ công hiệu, một loại tiên dược thần kì mà chẳng tốn tiền mua.

Khi trình bày luận điểm thứ ba, nhà văn đứng ở một góc nhìn khách quan để quan sát và phân tích, so sánh hai hình thức ngao du: đi xe và đi bộ.

Trong thời đại văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn nhưng rốt cuộc, giá trị của thành tựu khoa học kĩ thuật cũng chỉ có thế. Còn đi bộ (trong trường hợp ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, sức khỏe nhiều hơn. Ru-xô nhận xét về hai thái cực trái ngược nhau: Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả.

Đoạn văn được viết bằng một giọng điệu hân hoan dù đậm tính chủ quan nhưng vẫn được mọi người đồng tình. Những câu văn ngắn gióng như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia thong thả, ung dung: Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà I Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cài giường tồi tàn!

Trong các chuyến đi bộ ngao du, điều kiện ăn ngủ tuy đơn sơ thiếu thốn nhưng những thú vui tình thần lành mạnh, bổ ích sẽ đem đến cho tâm hồn ta sự sảng khoái vô biên. Nếu cuộc đời được nối tiếp bằng những cuộc đi bộ ngạo du như thế thì chắc chắn ta sẽ trẻ mãi không già.

Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường nên tránh được sự khoa trương ồn ào. Mục đích của đi bộ ngao du cũng có giới hạn, không thể áp dụng nó trong tất cả các loại hành trình: Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Kết luận như thố là khéo léo, thiết thực.

Trong tác phẩm, có những chỗ tác giả xưng ta và có những chỗ xưng tôi. Tác giả xưng ta khi lí luận chung và xưng tôi khi nói về cảm nhận của mình trước cuộc sống. Cũng có lúc những trải nghiệm riêng tư ấy lại được thể hiện dưới dậng kể chuyện về người học trò Ê-min, tuy rằng Ê-min chỉ là nhân vật do ông tưởng tượng ra mà thôi.

Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lí luận trừu tượng và vốn sống thực tế của bản thân nên áng văn nghị luận này của Ru-xô không hề khô khan mà ngược lại rất sinh động, giàu sức thuyết phục.

Ru-xô là một con người giản dị, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên. Bóng dáng của núi sông, đồng ruộng, hoa lá, cỏ cây hiện lên khá đậm nét trong bài Đi bộ ngao du, đó là nét đặc biệt làm cho bài văn nghị luận này trở nên nhẹ nhàng, tươi mát và đầy sức sống.

Đề bài: Phân tích Bài đi bộ ngao du.

Bài làm

Ê-min hay bàn về giáo dục là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Ru-xô. Tác phẩm được sáng tác năm 1762, nói về vấn đề giáo dục thể lực và trí tuệ con người. Đoạn trích Đi bộ ngao du được trích từ cuốn thứ 5 khi E-min đã khôn lớn, trưởng thành. Với đoạn trích này, tác giả muốn khẳng định đi bộ có ý nghĩa, vai trò vô cùng lớn đối với mỗi chúng ta.

Văn bản Đi bộ ngao du nêu lên vấn đề chính là lợi ích của việc đi bộ. Để làm sáng tỏ luận điểm này, người viết đã đưa ra ba lập luận lớn: đi bộ đem lại cho chúng ta sự tự do, đi bộ cũng là dịp giúp con người trau dồi tri thức và cuối cùng đi bộ làm cho ta thêm phần khỏe mạnh. Và ở mỗi lập luận này ông đã đưa ra những dẫn chứng hết sức phong phú và thuyết phục.

Trước hết đi bộ đem đến cho chúng ta sự tự do, thoải mái, mà khi đi ngựa sẽ không bao giờ chúng ta cảm nhận được điều đó: “Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tùy … ta quay sang phải, sang trái…”. Quả thực đi bộ đem đến cho ta tất cả sự chủ động, giải phóng con người, khiến ta không phụ thuộc vào bất cứ điều gì. Giọng văn trong đoạn hứng khởi, tràn đầy năng lượng, giúp người đọc tin tưởng hơn nữa vào những lợi ích của việc đi bộ. “Tôi đi bất cứ đâu tôi ưa thích, tôi lưu lại đấy”, “Tôi chẳng phụ thuộc vào con ngựa hay gã phụ trạm” “Tôi hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thẻ hương thụ”…Sự tự do chắp cánh cho con người thỏa mãn mọi nhu cầu mong muốn của mình.

Không chỉ đem đến sự tự do, thoải mái, đi bộ còn cung cấp cho chúng ta nguồn tri thức dồi dào, phong phú. Để chứng minh luận điểm này, ông đã lấy những dẫn chứng từ thực tiễn cuộc sống. Những nhà khoa học nổi tiếng thế giới như Ta-lét, Pla-tông,… đều dùng đi bộ để quan sát, tìm tòi và khám phá thế giới. Đi bộ còn giúp ta khám phá những đặc sản nông nghiệp, sưu tập những viên đá, hòn sỏi, xem xét các giống cây trồng,… cả thế giới bao la kia sẽ được ta chiếm lĩnh qua những hành trình đi bộ đầy lí thú. Đặc biệt, tác giả có lối so sánh rất thú vị để khẳng định tính chính xác của những lí lẽ: ông so sánh phòng khách của những nhà tự nhiên học cũng chẳng thể phong phú bằng phòng sưu tập của Ê-min, hơn thế, họ sưu tập mà chẳng hề có ý niệm về những thứ mà mình đang trưng bày. Với phép so sánh đầy sức thuyết phục ấy càng củng cố hơn nữa niềm tin cho người đọc về công dụng của việc đi bộ

Cuối cùng đi bộ đem lại sức khỏe cho con người. Không chỉ sức khỏe được tăng cường mà tính khí còn trở nên hoạt bát, vui vẻ, còn điều gì tuyệt vời hơn thế. Ở đây tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp so sánh, nhưng người đi xe thường buồn bã, cáu kỉnh còn như Ê-min tung tăng trên đôi chân của mình lại luôn vui vẻ, khoan khoái.

Với cách viết thâm trầm, giản dị, giọng văn thay đổi linh hoạt, tác giả đã cho thấy rõ những lợi ích, vai trò to lớn của việc đi bộ. Đi bộ là cách tốt nhất để con người phát triển toàn diện cả về thể lực và trí lực. Bài văn tuy đã ra đời hàng thế kỉ những vẫn giữ nguyên ý nghĩa và giá trị của nó.