Đề bài: Phân tích tác phẩm “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.

Bài làm

Nhà thơ Đỗ Trung Quân từng có một định nghĩa bằng thơ rất hay về quê hương:

“Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay…”

Thực vậy, trên thế gian này có bao nhiêu con người thì có bây nhiêu cách định nghĩa khác nhau về quê hương. Nhưng hiểu một cách chung nhất, quê hương là điểm đến của tâm linh, điểm về của mọi xáo trộn tâm hồn và là nơi để ta có thể nương tựa sau những vấp ngã, khó khăn trên đường đời. Bởi đơn giản quê hương chính là nơi lưu giữ những kỉ niệm ngọt ngào và là nơi luôn tồn tại những tấm lòng giàu tình yêu thương, sẵn sàng dang rộng vòng tay để đón chúng ta vào lòng. Cũng nhận ra được điều đó, Nguyễn Minh Châu – một nhà văn luôn có những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời đã viết lên truyện ngắn “Bến quê” (1985) nhằm thức tỉnh người đọc biết nhận ra và biết trân trọng những vẻ đẹp gần gũi, bình dị, vững bền và quý giá của gia đình, quê hương.

Truyện được kể theo ngôi thứ ba nhưng toàn bộ diễn biến câu chuyện được nhìn qua lăng kính tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật Nhĩ với một hoàn cảnh đặc biệt: sắp giã từ cuộc đời. Vì thế, làm cho dòng trần thuật chuyển hóa thành dòng độc thoại nội tâm với những suy ngẫm, triết lí khái quát về con người và cuộc đời của Nhĩ. Từ đó, giúp cho câu chuyện trở nên chân thực, sinh động, đồng thời toàn bộ tư tưởng, chủ đề của truyện được truyền tải một cách dễ dàng, tự nhiên, gần gũi và sâu sắc.

Trước hết, truyện ngắn “Bến quê” đã được nhà văn tạo dựng bằng một tình huống truyện độc đáo mang đầy những nghịch lí, éo le. Nhĩ – một con người đã từng chu du đi khắp nơi trên trái đất với bất kể xó xỉnh nào anh cũng đã từng đặt chân tới nhưng đến phút giây cuối đời anh lại phải cột chặt thân mình bên giường bệnh. Và khi phải bó mình trên chiếc giường chật hẹp, không đi lại được anh mới chợt nhận ra vẻ đẹp giàu có của bãi bồi bên kia sông Hồng – nơi mà anh chưa từng đặt chân đến và vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhưng tiếc thay đã quá muộn màng. Tạo ra một tình huống nghịch lí ấy, tác giả muốn hướng tới một nhận thức mang tính chiêm nghiệm: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của con người. Do không thể trực tiếp thực hiện được khát vọng đi tới “miền đất mơ ước” ấy, nên Nhĩ đã nhờ vả đứa con trai thay mình đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Nhưng cậu bé đã không hiểu được ý cha nên nó chịu đi một cách miễn cưỡng và rồi bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế bên dọc đường, có thể làm lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Anh nhớ lại thời trai trẻ của mình cũng ham chơi như thế, vả lại nó cũng chưa nhận ra sự hấp dẫn bên kia sông, nên anh không hề trách cậu bé. Từ đó, anh rút ra một triết lí có tính chất tổng kết, chiêm nghiệm về qui luật của cuộc đời con người: “Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Nhĩ một con người của thời đại mới chỉ biết chạy theo những ước vọng xa vời mà lãng quên đi những vẻ đẹp bình dị, thân quen mà mình đang có. Để rồi khi vấp ngã, khi phải sắp chia xa với cuộc sống này vĩnh viễn thì anh mới chịu nhận ra quê hương, gia đình, người vợ mới là bến đậu, là nơi nương tựa bình yên và vững chắc nhất cho con người sau hành trình đi xa trở về. Mặc dù nhận thức của Nhĩ dẫu có chút muộn màng nhưng dù sao anh cũng đã kịp nhận ra trước sự sai lầm của mình, giúp anh cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng.

Cuối truyện, nhà văn miêu tả chân dung và hành động của Nhĩ với vẻ không bình thường: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai con mắt long lanh chứa một nỗi say mê đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động đó của Nhĩ thể hiện sự nôn nóng, thức giục con trai hãy mau mau đi đi không lại lỡ mất chuyến đò. Hay đó chính là điều mà tác giả muốn gửi gắm cho chúng ta đừng để mất thời gian vô ích cho những cái “chùng chình”, “vòng vèo” trên đường đời mà hãy hướng tới những giá trị đích thực, giản dị, bền vững quanh ta.

Trong truyện, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất nhiều những hình ảnh, chi tiết mang tính biểu tượng, có sức chứa đựng khái quát về tư tưởng, chủ đề của truyện với hai lớp nghĩa: tả thực và tượng trưng. Mở đầu truyện là hình ảnh thiên nhiên rất đẹp, thơ mộng với bãi bồi bên kia sông Hồng của tiết trời đầu thu trong buổi sớm bình minh. Đó chính là vẻ đẹp đời sống bình dị, thân thuộc, gần gũi quanh ta như bãi bồi, bến sông mà mở rộng ra là quê hương, làng xóm. Những bông hoa bằng lăng cuối mùa còn sót lại trên cành xòe nở ra một màu tím thẫm; tiếng đất đá lở bên bờ sông, những cơn lũ đầu nguồn đổ về lúc gần sáng… có ý nghĩa biểu tượng cho sự sống của Nhĩ rất mong manh, lóe lên rồi vụt tắt trong những ngày cuối cùng của cuộc đời….Hình ảnh đứa con trai sà vào trò chơi phá cờ thế trên dọc đường biểu tượng cho sự “chùng chình”, “vòng vèo” trong cuộc sống mà con người khó có thể tránh khỏi, rứt ra được….

Có thể nói, với truyện ngắn “Bến quê”, Nguyễn Minh Châu đã sử dựng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thật tinh tế, thấm đượm tinh thần nhân đạo. Nếu như các nhà văn xưa, khi đặt nhân vật trong hoàn cảnh phải đối diện giữa sự sống và cái chết thường hướng tới sức mạnh tinh thần, ý chí nghị lực để vươn lên, chiến thắng nỗi sợ hãi thông thường hay biểu trưng cho sự hi sinh lớn lao, cao cả , thiêng liêng như “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen – ri, “Tình yêu cuộc sống” của Giắc Lân – đơn … thì Nguyễn Minh Châu lại không đi theo cái lối mòn ấy mà lại lựa chọn và xây dựng lên một tình huống khác lạ, độc đáo: đặt nhân vật vào hoàn cảnh sắp từ giã cõi đời để hướng tới sự chiêm nghiệm triết lí về con người và cuộc đời. Bởi khi con người từng trải đang sống nốt những giây phút ít ỏi còn lại của mình thì mới đủ chín chắn và trưởng thành để có thể đưa ra những bài học có tính chất tổng kết một cách sâu sắc về cuộc đời con người được. Cách tư duy đó của nhà văn từ đó cũng giúp cho câu chuyện không chỉ tự nhiên mà còn trở nên thuyết phục, giàu tính nhân văn, nhân đạo hơn. Hay nói cách khác là nhà văn không trực tiếp giao giảng, áp đặt chân lí vào người đọc mà ngược lại thông qua một cuộc đời, một số phận con người để tự rút ra những suy ngẫm của riêng mình nhưng đó lại là suy nghĩ chung, phù hợp với tất cả mọi người. Vì vậy, tuy nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng nhưng đã không bị biến thành “cái loa phát thanh” cứng nhắc cho tác giả mà ngược lại số phận, hoàn cảnh của nhân vật lại là “công cụ” đắc lực hợp tình hợp lí để truyền tải tư tưởng của Nguyễn Minh Châu.

Tóm lại, truyện ngắn “Bến quê” rất tiêu biểu cho nghệ thuật trần thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu, có sự kết hợp khéo léo giữa tự sự, trữ tình và triết lí. Đồng thời cho thấy tài năng dựng truyện tự nhiên, hợp lí, cách miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo, thể hiện được những suy ngẫm của nhân vật, kết hợp với những hình ảnh, chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng. Từ đó, làm nổi bật tư tưởng, chủ đề mà tác giả gửi gắm. Khép lại “Bến quê” cũng như biết bao nhiêu những trang văn khác của Nguyễn Minh Châu, người đọc nhận ra những điều gửi gắm của nhà văn: con người cần phải nhìn lại mình, cần biết trân trọng những giá trị vững bền, bình dị của gia đình và quê hương mà ta đang có.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Bến quê của Nguyễn Minh Châu

Bài làm

Nguyễn Minh Châu cây bút tài năng trong làng văn học Việt Nam, ông được mệnh danh là một trong những nhà văn mở đường “tinh anh và tài năng nhất” của Văn học nước ta. Ông trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, các tác phẩm của ông sáng tác sau 1975 thể hiện những quan niệm mới mẻ về nghệ thuật và nhân sinh. Bến quê là một trong những tác phẩm như vậy, tác phẩm được coi là bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

Tác phẩm xoay quanh tình huống: Nhĩ là người đã từng đi nhiều nơi trên thế giới, chẳng còn thiếu xó xỉnh nào, vậy mà cuối đời, vì bệnh nặng nên anh phải nằm một chỗ. Nhưng cũng chính trong những ngày cận kề cái chết anh mới bất chợt nhận những vẻ đẹp giản dị, gần gũi vốn quen thuộc nhưng hóa ra lại quá xa vời với anh. Đây tình là tình huống truyện nhận thức vô cùng độc đáo, thể hiện được những suy tư, chiêm nghiệm của nhân vật.

Câu chuyện hầu hết xoay quanh nhân vật Nhĩ, về tình cảnh, về những mong muốn và suy tư của nhân vật trong những ngày cuối đời. Nhĩ là một người đã đi nhiều nơi, nhưng cuối đời lại có cảnh ngộ hết sức đặt biệt: phải nằm bẹp một chỗ, những sinh hoạt hàng ngày đều do vợ con, hoặc hàng xóm giúp đỡ chăm sóc, việc di chuyển của anh cũng vô cùng khó khăn, chỉ 50cm mà như tưởng chừng như đi được nửa vòng trái đất. Nhưng cũng chính ở hoàn cảnh ấy anh có thời gian tĩnh tâm, cảm nhận và suy ngẫm về cuộc sống về những người quanh mình.

Một trong những cảm nhận đầu tiên của anh chính là về khung cảnh thiên nhiên quanh mình. Khung cảnh được miêu tả theo cảm nhận của Nhĩ từ xa đến gần, từ thấp đến cao. Trước hết là những cành hoa bằng lăng cuối mùa “những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt” “mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”; dòng sông hồng “màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra”; hướng mắt ra xa hơn là khung cảnh bầu trời bỗng cũng như rộng thêm, các bãi bồi bên kia sông phô ra màu vàng thau xen lẫn xanh non, ấy là màu của đất đai màu mỡ, màu của sự sống sinh sôi. Khung cảnh thiên nhiên qua con mắt của Nhĩ vừa có chiều rộng lại vừa có chiều sâu, đó là những cảm nhận hết sức tinh tế, phong phú. Những hình ảnh đó thật quen thuộc, thật gẫn gũi mà cũng biết bao xa lạ bởi có lẽ đây là lần đầu tiên Nhĩ cảm nhận thấy hết vẻ đẹp của nó. Nhĩ bỗng nhận ra, biết bao thứ đẹp đẽ, giản dị quanh mình, mà bản thân đã bỏ lỡ từ rất nhiều năm qua.

Anh không chỉ cảm nhận về sự thay đổi của khung cảnh thiên nhiên, Nhĩ còn phát hiện ra biết bao điều đẹp đẽ, phẩm chất tốt đẹp của người vợ bên mình – chị Liên. Chung sống với nhau biết bao nhiêu năm, nhưng đây là lần đầu tiên anh thấy chị mặc áo vá, nhận ra đôi bàn tay gầy guộc, tần tảo cả một đời lam lũ, vất vả của chị. Cho đến tận bây giờ anh mới cảm nhận được hết nỗi khổ chị phải chịu đựng, tình yêu thương mà chị dành cho anh: “có hề sao đâu … Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này…”. Qua những cử chỉ, hành động của chị, anh càng trân trọng hơn vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn vợ, đồng thời cũng xót xa, ân hận vì những tháng ngày đã bỏ bê vợ con, cũng vì thế mà anh càng yêu chị hơn nữa.

Trong những ngày này anh cũng cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của tình làng, nghĩa xóm. Đó là những đôi bàn “chua lòm mùi nước dưa”, sự ngộ nghĩnh đáng yêu của những đứa trẻ khi chúng giúp Nhĩ đi nốt nửa vòng trái đất còn lại. Rồi cả cụ giáo Khuyến, sau khi mua báo sáng về thế nào cũng hỏi han tình hình sức khỏe của anh. Đó chính là vẻ đẹp của tình cảm mà bấy lâu nay cuộc sống bộn bề đã che khuất mất. Và anh cũng nhận ra rằng thì ra bến đậu bình yên, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người không phải là những chân trời mới mẻ xa lạ mà chính ngay đây, nơi có tình làng nghĩa xóm “tắt lửa tối đèn” có nhau.

Đây cũng là lần đầu tiên Nhĩ phát hiện và cảm nhận đầy đủ nhất vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, những suy tư về hình ảnh bãi bồi cũng chính là sự bừng tỉnh của Nhĩ về cuộc sống. “Cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng lúc này phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen lẫn xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa nhà mình”. Bãi bồi bên kia sông là hiện thân cho những giá trị gia đình, quê hương bền vững, bình dị mà vô cùng sâu sắc của cuộc sống. Nhĩ khao khát được một lần đặt chân lên bãi bồi vốn thân thuộc mà lại xa cách ấy. Nhưng anh lại vấp phải một nghịch lí: anh không còn đủ khả năng và cơ hội để thực hiện mong muốn ấy nữa. Chính trong khoảnh khắc đó anh đã có một đề nghị thật bất ngờ với cậu con trai: hãy sang bờ bên kia sông Hồng. Có lẽ người con trai không hiểu được bởi vậy đã sa vào ván cờ thế ven đường và bỏ lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Anh không trách con trai bởi tuổi trẻ người ta thường bỏ qua những gì đẹp đẽ quanh mình, bỏ qua những giá trị đích thực trong cuộc sống. Xây dựng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu gửi gắm nhiều triết lí, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Nhân vật đã trở thành người cảnh tỉnh đối với mỗi chúng ta, đó là không được sa vào những cái vòng vèo, chùng chình mà phải biết tìm về với nguồn cội, quê hương.

Ngoài nhân vật Nhĩ chúng ta còn thấy hiện lên một người vợ tảo tần, chịu thương chịu khó là chị Liên. Chị là một người phụ nữ tinh tế, nhạy cảm, rất quan tâm và cảm thông với chồng. Trước những câu hỏi của anh chị chỉ im lặng lảng tránh hoặc nói những lời âu yếm, động viên chồng : “anh cứ yên tâm. Vất vả tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được”; “sang tháng mười nhất định anh đi lại được”. Chị là người giàu đức hi sinh, tảo tần: chị chăm lo cho anh từng miếng ăn, ấm thuốc; tấm áo vá đã bao năm, những ngón tay gầy guộc càng chứng minh rõ hơn sự hi sinh thầm lặng của chị. Đặc biệt những bước châm rất nhẹ, rất êm của chị đã nói lên muôn nỗi vất vả, lòng vị tha , tình yêu thương và đức hi sinh của chị Liên. Chị là biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, bên ngoài vẻ khắc khổ là một tâm hồn bao dung, độ lượng, giàu đức hinh sinh, là bến đỗ an toàn và bình yên trong cuộc đời. Vẻ đẹp của chị cũng như bãi bồi bên kia sông Hồng, trải qua bao bão tố vẫn giữ vẹn nguyên sự ấm áp, chân tình.

Để tạo nên sự thành công cho tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công tình huống truyện nhận thức đầy tính nghịch lí, để từ đó đưa ra những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời: “con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Nghệ thuật trần thuật qua dòng nội tâm, khắc họa được tính cách, nội tâm phong phú của nhân vật. Ngoài ra hệ thống các hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: bến quê, bãi bồi bên kia sông,… làm tác phẩm sâu sắc, giàu ý nghĩa hơn. Bên cạnh đó ngôn ngữ phong phú, giản dị, giọng điệu thấm đẫm chất suy tư cũng góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm

Với nghệ thuật xây dựng tình huống hấp dẫn, ngôn ngữ đậm chất suy tư tác phẩm mang đến những thông điệp ý nghĩa, sâu sắc: nhận ra những nghịch lí trong cuộc đời từ đó trân trọng, tìm về với gia đình, quê hương. Trong cuộc đời không tránh khỏi những vòng vèo phải tỉnh táo để tránh được những điều đó tìm đến những giá trị đích thực trong cuộc đời.