Đề bài: Hãy phân tích Chuyện người con gái Nam Xương, Truyện Kiều và một số bài thơ của Hồ Xuân Hương nhằm làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại.

Bài làm

Trong vô số những nạn nhân của xã hội phong kiến có một tầng lớp mà hết thảy các nhà văn nhân đạo đều đau xót, trân trọng và tập trung viết về họ, đó là người phụ nữ. Họ là Hình tượng tiêu biểu cho những số kiếp bi đát, cho những con người trong cuộc đời bế tắc. Họ là những con người có đủ tài năng, có đức hạnh thanh cao nhưng lại bị cuộc đời vùi dập xô đẩy. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này, nổi bật nhất phải kể đến sáng tác thuộc trào lưu nhân đạo thể kỉ XVII – XVIII, những tác phẩm của những tác giả nổi tiếng như Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn du với Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương với Làm lẽ, Bánh trôi nước vv … Đó là những tác phẩn mà đến nay như vẫn còn vang vọng tiếng kêu cứu não nùng đau đớn của những con người quằn quại trong vũng lầy xã hội cũ.

” Hồng nhan đa truân ” – câu ấy có lẽ lại là một lời nhận xét rút ra từ hiện thực cuộc sống của người xưa. Có lẽ lời nhận xét ấy cũng phần nào đúng với thực tế vì trong hầu hết các tác phẩm, những người phụ nữ bất hạnh lại thường là những người phụ nữ đẹp. Đấy là những người có vẻ đẹp trung hậu, dịu dàng của người phụ nữ nông thôn như nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, có ” tư dung tốt đẹp ” hay vẻ đẹp khỏe mạnh tràn đầy sức sống của cô gái đương độ nhan sắc với nước da trắng và thân hình khỏe mạnh.

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Đến những người con gái có sắc đẹp khuynh nước khuynh thành như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

  Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh
  Một hai nghiêng nước nghiêng thành ...

Vẻ đẹp của nàng làm lu mờ tất cả những gì được gọi là thanh cao nhất, đẹp nhất của thiên nhiên, đôi mắt trong thăm thẳm như làn nước mùa thu, nét mày thanh tú mơn mởn như rặng núi mùa xuân. Và vẻ tươi thắm của hoa, dáng vẻ yêu kiều mềm mại của liễu cũng phải ” hờn ” phải ” ghen ” với người con gái tuyệt sắc đó.

Không chỉ đẹp ở tư dung bên ngoài, họ còn có đủ tài năng đức hạnh. Đó là Vũ Nương tính thùy mỵ, nết na, giữ gìn khuôn phép. Chồng đi lính xã nhà, nàng ở nhà nuôi con, phụng giưỡng mẹ già và chung thủy đợi chồng. Đó là nàng Kiều với lòng hiếu thảo cao cả. Nàng sẵn sang hi sinh thân mình cứu lấy gia đình khỏi cơn nguy biến, chấp nhận mọi sóng gió cuộc đời.

Với nhan sắc và phẩm hạnh cao quý như thế, đáng lẽ họ phải được sống cuộc đời êm đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất hạnh lại ập đến với họ. Nỗi đau đớn nhất của người phụ nữ là gia đình tan vỡ và họ phải chịu nỗi giày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Nỗi oan nghiệt đã đổ ập xuống đầu Vũ Nương. Khi chồng nàng trở về, chỉ vì lòng ghen tuông mù quáng, nghi vợ con tư tình, bèn đuổi nàng đi, để nàng nhục nhã đến nỗi phải tìm tới cái chết. Đến khi chồng nàng hiểu ra thì đã quá muộn màng. Ước mơ lớn nhất của nàng là được sống bình dị, nhưng hạnh phúc mãi mãi không bao giờ trở thành hiện thực đối với nàng.

Với Kiều, Người con gái ” sắc đành đòi một, tài đành họa hai “, cuộc đời nàng con gian truân lận đận hơn nữa. Mối tình tuyệt đẹp giữa nàng và Kim Trọng, một văn nhân hào hoa, phong nhã, vừa mới chớm nở cũng là lúc nàng đau đớn dứt bỏ với tiếng gọi xé lòng :

   Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Chỉ sau một cơn gia biến, vì sự vu oan trắng trợn của thằng bán tơ, vì “ba trăm lạng bạc việc này mới xong”, mà nàng trở thành một món hàng để cho bọn buôn thịt bán người cò kè ngã giá:

   Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm

Người đọc đã không nén được xúc động trước nỗi đâu khổ dằn vặt của người con gái liễu yếu đào tơ ấy “Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”. Nhưng đó chỉ mới mở đầu cho cả những chuỗi ngày đau khổ nhất cuộc đời nàng. Trong những chuỗi ngày ấy, nàng đã khóc không biết bao nhiêu lần. Từ tay Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà, vốn nổi tiếng là mụ chủ của làng thanh lâu. Là con gái của gia đình Vương viên ngoại “Gia tư nghi cũng thường thường bậc trung”, vốn có dòng dõi cao quý, là một cô gái con nhà gia giáo. Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái thanh lâu. Nàng đã chịu bao trận đòn tàn khốc của Tú Bà, sau cùng Tú Bà lại bày mưu thuê Sở Khanh lừa nàng để buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Bắt đầu những ngày ảm đạm nhất trong cuộc đời của nàng Kiều. Từ một cô gái trinh trắng, đức hạnh, nàng trở thành món đồ cho bọn khách làng chơi. Nàng xót xa thay cho số phận mình.

   Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân

Không phải không có lúc dịp may đến với nàng. Nhưng đó là một chút ánh sáng lóe lên rồi chợt tắt ngấm khiến cho cuộc đời tooist tăm của nàng tưởng hửng sáng nhưng rồi lại càng tối tăm mịt mù hơn. Ấy là nàng được Thúc Sinh một khách làng chơi hào phóng, ái mộ tài sắc của nàng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Nhưng nàng lại rơi vào tay vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư, một tiểu thư con nhà quan, lại có thừa mưu mô xảo quyệt. Nàng đã bị tra tấn thật tàn nhẫn :

Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi

Hoạn Thư bày ra một cách thật ngang trái. “Ngay trong đêm hàn huyên của hai vợ chồng mụ, nàng đã phải đánh đàn, hầu rượu mua vui cho cả hai vợ chồng, để cho nàng đau đớn cả cõi lòng”, “Người ngoài cười nụ” mà “người trong khóc thầm”.

Đau khổ đến cùng cự, nàng đã định nương nhờ cửa Phật nhưng món nợ trần gian còn mãi đeo đẳng nàng. Nàng lại rơi vào lẫu xanh lần thứ hai và lại được Từ Hải – vị anh hùng của cuộc khỏi nghĩa chống lại triều đình cứu ra khỏi lầu xanh. Cuộc hôn nhân của hai con người “trai anh hùng, gái thuyền quyên” đó đã tưởng được bền lâu. Cho đến khi công thành danh toại “Triều đình riêng một góc trời”, đã báo ân báo oán, nàng lại rơi vào cái bấy hiểm độc của Hồ Tôn Hiến khiến cho nàng vô tình tiếp tay cho kẻ giết chồng mình. Lúc đó Từ Hải chết cũng là lúc Kiều tắt hết niềm hi vọng. “Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi”. Ngay sau cái chết của chồng, nàng bị ép gảy đàn mua vui cho chiến thắng của chúng. Tên tổng đốc Hồ Tôn Hiến bỉ ổi làm nhục nàng, và khi chợt tỉnh hẳn đã không ngại gả nàng cho một viên thổ quan. Lần này nàng tự tử và lại được cứu thoát. Nàng may mắn trở về gặp gia đình, gặp lại người tình xưa nhưng đối với nàng, cuộc sống lứa đôi không còn ý nghãi. Đó là niềm an ủi cuối cùng của nàng Kiều như một lời nhận xét của nhà phê bình văn học. Đối với những người phụ nữ bình dân, thân phận của họ cũng không hạnh phúc. Bao người con gái đã chịu cảnh sống mà như chết trên cõi đời. Trẻ trung, có chồng nhưng sống như những góa phụ, thực chất họ chỉ là những đầy tớ không công, không hơn không kém. Hồ Xuân Hương có lần chua xót thốt lên:

Kẻ đặp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Người con gái trong xã hội phong kiến không được quyền định đoạt bất kì một vấn đề gì. Thông qua hình tượng chiếc bánh trôi bập bềnh, trôi nổi. Hồ Xuân Hương đã nói đến cuộc sống cũng như đức hạnh của người phụ nữ :

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Như chiếc bánh trôi nước, thân phận người phụ nữu tùy thuộc vào bàn tay của người khác, họ đành cam chịu số phận đã sắp đặt sẵn và cố giữ lấy cho mình một phẩm chất tốt đẹp đó là tấm lòng kiên định trong sáng.

Phản ánh những bi thảm của người phụ nữ, các nhà văn nhân đạo không thể giấu nổi tình cảm xót xa, đau đớn của mình. Nhiều khi tác giả đóng vai trò người ngoài cuộc nhưng cũng không thể không bộc lộ những cảm xúc :

   Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mênh cũng là lời chung

Với nàng Kiều người con gái được coi là biểu tượng của một nỗi đau khổ. Nguyễn Du dành cho tình cảm đặc biệt. Ông cũng nức nở như nàng khi mối tình đầu của nàng tan vỡ, cũng đau đớn khi những lằn roi quất lên làn da thịt nàng, cũng bao đêm cùng nàng thao thức : “Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy, năm canh” Tình yêu thương con người đã khiến nàng vượt lên chính bản thân mình. Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc ở một chừng mực nào đó, ông cũng là đại diện cho từng lớp quý tộc phong kiến, nhưng ông đã thẳng thừng lên án bọn quan lại, những kẻ gây lên cuộc đời đau khổ cho nàng Kiều. Đối với những phường buộn thịt, bán người ông chủ trương trừng trị đích đáng tội ác của chúng ngay tại kiếp này, chứ không cho đến kiếp sau.

Hồ Xuân Hương và một số nhà thơ khác cũng có thái độ tương tự. Chưa bao giờ cuộc sống gia đình và hạnh phúc riêng tư được đề cập đến nhiều như giai đoạn này. Thông qua hình ảnh một người phụ nữ chịu kiếp làm lẽ hẩm hiu, khao khát hạnh phúc. Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đòi quyền được hưởng hạnh phúc, được sống trong mái ấm gia đình của người phụ nữ. Mặt khác bà cũng lột trần bộ mặt của những kẻ được gọi là văn nhân, tài tử trong xã hội phong kiến, chúng mang bộ mặt đạo đức giả luôn tỏ ra cao đạo nhưng thực chất là những kẻ dâm ô nhất. Lên tiếng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời các nhà văn, nhà thơ cũng lên tiếng đả phá chế độ đa thê đã từng chộn vùi cuộc sống của nhiều cô gái trẻ. Đó là dấu hiệu của sự rạn nứt ý thức hệ phong kiến nặng nề đã tồn tại từ bao đời nay.

Viết về người phụ nữ là một sự tiến bộ vượt bậc của các tá giả văn học cổ Việt Nam. Khi phản ánh số phận của những người phụ nữ bất hạnh, các nhà văn đã không khỏi băn khoăn và tìm đến cách lý giải những nối khổ của người phụ nữ không tránh khỏi những sai lệch. Nguyễn Du đã lý giải nỗi đau khổ của nàng Kiều là bởi “tài mệnh tương đồ”, vì “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” “Ông trời một thế lực tối cao vô hình vốn ghen ghét đối với những người đàn bà đẹp. Nhưng bằng hiện thực tác phẩm, Nguyễn Du đã lý giải hẳm, những kẻ dê tiện, bỉ ổi từng hãm hãi cuộc đời nàng Kiều đã hiện lên rất thực rất sinh động. Từ tên bán tơ xảo quyệt, mụ Tú Bà buôn thịt bán người hay tên quan xử vụ kiện họ Vương ăn đút lót “Có ba trăm lạng việc này mới xong”, tới tên tổng đốc trọng thần dâm ô, bỉ ổi Hồ Tôn Hiến … cả xã hội hỗn loạn đó đã vùi dập cuộc đời nàng Kiều chứ không phải ai khác. Một thế lực tuy vo hình nhưng vô cùng tàn bạo cũng là nguyên nhân dẫn đến khổ đau của người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi sinh hoạt của xã hội. Chẳng thế mà đã bao lần nhà thơ dau đớn thốt lên :

- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
- Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong

Những hủ tục phong kiến như nam quyền, chế đọ đa thê cũng tạo nên đau khổ cho người phụ nữ. Đứng trước nối đau đớn ấy, nhiều nhà văn không thể né tránh trách nhiệm và nghãi vụ của mình. Văn học thời kỳ này đa góp cho nền văn học VIệt Nam một trào lưu văn học nhân đạo cao cả với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó cũng là khởi đầu cho mọi trào lưu nhân đạo sau này.

Nhưng tác phẩm văn học đó cho ta thấy lại cả một quãng đời đau thương, tủi nhục của cả một tầng lớp người xưa trong xã hội và nỗi cảm thương sâu sắc với họ, của những nhà văn nhân đạo. Đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính cần được gìn giữ và lưu truyền.

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại.

Bài làm

Nếu như trong các thế kỉ trước chủ nghĩa yêu nước là đề tài chiếm đa phần các sáng tác thì sang đến thế kỉ XVIII, ngòi bút của các tác giả trung đại tập trung về giá trị nhân đạo, với lòng cảm thương sâu sắc số phận của người phụ nữ. Họ – những người phụ nữ hội tụ đầy đủ công – dung – ngôn – hạnh nhưng lại phải chịu số phận hết sức đắng cay. Đó là nàng Kiều của Nguyễn Du, nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ, người phụ nữ trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương. Mỗi nhân vật trữ tình mang một nét riêng, nhưng ở họ đều là hình ảnh tiêu biểu nhất cho số phận cũng như vẻ đẹp người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.

Trước hết họ là những người phụ nữ có vẻ đẹp ngoại hình, họ đều là những người phụ nữ xinh đẹp. Là vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi, đầy sức sống: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Còn Vũ Nương chỉ được khái quát bằng câu văn rất ngắn: “tính đã thùy mị, nết na lại thêm phần tư dung tốt đẹp”. còn nàng Kiều, được Nguyễn Du ưu ái hơn cả, ông dùng những lời thơ đẹp đẽ nhất, tinh tế nhất để miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của nàng:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Nguyễn Du đã lấy những hình ảnh đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả nàng Kiều, đó là đôi lông mày lá liễu như dáng núi mùa xuân, là đôi mắt có hồn, ẩn chứa trong đó là cả thế giới nội tâm đa dạng, phong phú.

Những người con gái ấy không chỉ là đẹp người mà họ còn đẹp nết, đẹp về tâm hồn tính cách. Nàng Vũ Nương đoan trang, hiền thục, nết na đã khiến cho Trương Sinh cảm mếm về đức hạnh mà dùng trăm lạng vàng để lấy nàng về. Khi về làm dâu, nàng biết chồng có tính hay ghen và phòng ngừa quá sức nên luôn giữ gìn khuôn phép, đúng mực trong cách hành xử để hai vợ chồng không rơi vào cảnh bất hòa. Không chỉ vậy nàng còn là một người con dâu hiếu thảo, mẹ chồng luôn được nàng chăm sóc hết mực, khi bà ốm đau nàng thường dùng những lời nhẹ nhàng khuyên lơn để mẹ cố gắng ăn cháo, uống thuốc. Có mấy ai tạo được mối quan hệ mẹ chồng, nàng dâu tốt đẹp đến thế. Đến khi mẹ chồng chết nàng cũng lo tang ma chu toàn. Hơn thế, nàng còn là một người phụ nữ hết sức đảm đang. Chồng đi ra trận, nàng ở nhà một mình nuôi con, quán xuyến công việc gia đình một cách toàn vẹn nhất. Để con không phải chịu thiếu thốn tình cha, nàng còn tự chỉ vào bóng mình, để bé Đản được sống trọn vẹn trong tình yêu thương của cha mẹ. Có thể thấy Vũ Nương là hiện thân đầy đủ nhất của vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.

Nàng Kiều lại mang trong mình vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn rất đỗi nhạy cảm. Tài năng của nàng đủ cầm – kì – thi – họa, tài nào nàng cũng đạt đến độ xuất sắc. Nhưng nổi bật nhất chính là tài đàn, những bản đàn của nàng làm say đắm biết bao người. Cung đàn bạc mệnh ấy vừa cho thấy tâm hồn nhạy cảm, vừa như một dự báo cho số phận tương lai của chính nàng. Không chỉ vậy, trong lúc gia đình gặp nguy biến, nàng đã sẵn sang xả thân bán mình chuộc cha và em:

Rẽ để cho thiếp bán mình chuộc cha

Và ngay cả những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích nàng vẫn không thôi lo nghĩ cho cha mẹ, tuổi cao sức yếu không có ai chăm sóc: “Xót người tựa cửa hôm mai/ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ/ Sân Lai biết mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Trong trường hợp của Kiều, nàng là người đau khổ nhất, nhưng gạt đi nỗi đau cá nhân, Kiều vẫn một lòng nghĩ về những người thân yêu của mình. Đó là biểu hiện của trái tim nhân hậu, vị tha, bao dung cao cả.

Mặc dù, hội tụ đầy đủ vẻ đẹp về hình thức và tâm hồn, những tưởng những người phụ nữ ấy sẽ được hưởng cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng không, cả cuộc đời họ là những chuỗi tai ương nối tiếp nhau,. Quả đúng như Nguyễn Du đã từng tổng kết: “Chữ tài liền với chữ tai một vần” hay “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Người con gái trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương dù có vẻ đẹp tròn trịa tràn đầy sức sống, có tâm hồn thủy chung, son sắt nhưng cuộc đời lại lênh đệnh, phụ thuộc:

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Số phận của nàng Vũ Nương cũng chẳng khác gì cô gái kia. Lấy Trương Sinh không phải vì tình yêu, hơn thế lại có sự phân biệt về đẳng cấp. Ngay từ đầu đã báo hiệu một cuộc hôn nhân không lấy gì làm viên mãn. Khi nàng lấy chồng chưa bao lâu, chưa thỏa tình gối chăn thì chồng nàng bị gọi ra trận. Nàng sống thiếu thốn tình yêu thương lại phải một mình cáng đáng gia đình, nuôi con khôn lớn, chăm mẹ chồng già yếu. Nhưng tất cả nỗi đau về thể xác đó không đau đớn bằng việc Trương Sinh rũ bỏ, vu cho nàng cái tội mà nàng không có. Bị chồng nghi ngờ thất tiết, Vũ Nương đau đớn khôn cùng, và tận cùng của nỗi đau nàng đã lấy cái chết để giải thoát mình và chứng minh sự trong sạch của bản thân. Nàng chết đi, được Linh Phi cứu, sống cuộc đời bất tử song vẫn đầy bất hạnh, bởi tâm hồn nàng vẫn luôn hướng về ngôi nhà nhỏ, nơi có chồng và con nàng. Sống những chuỗi ngày dài, nhớ về quê hương, chẳng phải còn đáng thương hơn gấp bội đó sao.

Số phận nàng Kiều cũng bất hạnh không kém, sau khi bán mình chuộc cha, cuộc đời nàng bước vào mười lăm năm nổi nênh, sóng gió. Ngày Mã Giám Sinh đến “Đắn đo cân sắc cân tài”ngã giá, lòng nàng đau như thắt lại “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Những giọt nước mắt tủi cho thân phận bọt bèo của chính mình. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong cảnh cô đơn, lặng lẽ, nàng nhớ về Kim Trọng – mối tình đầu trong trắng và đau đớn khi đã phụ bạc chàng. Nàng nhớ về cha mẹ, xót thương vì không thể chăm sóc cha mẹ khi họ già yếu. Và đặc biệt là dự cảm của nàng về số phận của mình khi ở lầu Ngưng Bích: “Buồn trông của bể chiều hôm/…/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Bức tranh khung cảnh dữ dội, gào thét như báo hiệu trước cuộc đời đầy sóng gió của nàng.

Bằng tất cả tình yêu thương và lòng trân trọng, các tác giả đã cho người đọc thấy vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng ẩn sau đó còn cho thấy số phận đầy sóng gió bất hạnh. Các tác phẩm vừa giàu giá trị hiện thực, tố cáo xã hội phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng, cướp đoạt hạnh phúc của họ; đồng thời cũng là tiếng nói nhân đạo, thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với người phụ nữ.