Đề bài: Cảm nhận bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh.

Bài làm

Ngược dòng thời gian, Quê hương (1939) của Tế Hanh thực sự là mảnh hồn trong trẻo mà nhà thơ có được trước Cách mạng tháng Tám.

Giữa lúc phần đông các thi sĩ của phong trào thơ mới đang thở than, sướt mướt trong dàn đồng ca sầu với tình yêu tuyệt vọng, mối sầu cô đơn thì Quê hương của Tế Hanh cất lên như một tiếng thơ khỏe khoắn, khác lạ:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới 
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.

Tế Hanh là một nhà thơ lãng mạn, nhiều người cho rằng làm thơ lãng mạn phải nói đến tình yêu đau khổ, phải nhớ nhung đắm đuôi. Bài thơ này được viết khi ông mười tám tuổi, với bao mơ mộng của tuổi học trò. Tác giả xa quê nhớ về làng tôi ở nhưng cảm hứng thơ lại phân chấn, không hề gây cảm giác xa xôi, buồn man mác.

Thơ hoài niệm thường thấm đẫm nỗi buồn, bởi đó là kỷ niệm chập chờn hiện lên trong ký ức, trong nỗi nhớ thương. Ta nhớ tới vần thơ xao xác buồn đến nao lòng của Lưu Trọng Lư:

Mỗi lần nắng mới hát bên song 
Xao xác gà trưa gáy nào nùng 
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng 
Chập chờn sống lại những ngày không.
                      (Nắng mới)

Thế nhưng với Tế Hanh, cũng là thơ hoài niệm nhưng hình ảnh thơ khoẻ khoắn, cụ thể, rõ ràng như hiện thực trước mắt, sống động đến vô cùng. Thời khắc nhà thơ nhớ về làng quê mình ấy là:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Câu thơ mở ra không gian bát ngát, trong sáng, màu sắc rạng rỡ của miền biển khơi. Lời thơ như có nhạc, có hoa, có tiếng sóng, tiếng gió, thật tươi nhạc, tươi vui không chút buồn ảo não.

Nhớ về làng chài, nhà thơ nhớ cảnh đoàn thuyền ra khơi nhớ cái khỏe mạnh, phóng khoáng của dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Con thuyền không phải buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ (Đỗ Phủ) hay Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi (Anh Thơ) mà con thuyền đầy phấn khích, dường như cũng mang sức trẻ, lướt nhanh trên đầu sóng, ngọn gió, hăm hở:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã 
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Miêu tả cánh buồm của con thuyền ấy, nhà thơ đã tìm đến một hình ảnh so sánh, liên tưởng đẹp:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng 
Rướn thân tráng bao la thâu góp gió

Cánh buồm – cái cụ thể hữu hình được so sánh với hồn làng – cái trừu tượng vô hình. Hồn làng tức linh hồn, là nét riêng sâu thẳm, linh thiêng của quê hương, của làng chài mà nhà thơ cảm nhận qua một cánh buồm giương. Hình ảnh thơ thật khoáng đạt, kỳ vĩ, mang sức vóc tung tỏa của nó. Đây cũng là sự phát hiện tinh tế, chính xác của nhà thơ: cánh buồm thân thuộc, gắn bó, không thể thiếu trong đời sống mưu sinh, biểu tượng của một làng chài.

Nhà thơ còn nhân hóa cánh buồm no gió ấy mang sức vóc cường tráng, khỏe mạnh của một chàng trai rướn thân trắng bao la thâu góp gió. Không hiểu sao đọc câu thơ này của Tế Hanh tôi lại nhớ tới câu thơ thật lãng mạn của Tố Hữu trong niềm vui bất tuyệt:

Ngực lép bốn nghìn năm trưa nay cơn gió mạnh 
Thổi phồng lên, tim bỗng hóa mặt trời

Ngôn ngữ miêu tả trong câu thơ của Tế Hanh giàu giá trị tạo hình, đường nét phóng khoáng, khiến con người, con thuyền, cánh buồm cũng nổi hình, nổi khối, cựa quậy, sống động giống như những sinh thể kỳ vĩ.

Cảnh dân làng ra khơi đánh cá trở về trong nỗi nhớ của nhà thơ cũng thật tươi vui, gợi không khí thanh bình, no ấm:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ 
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới, làm da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm 
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Giống như bàn tay của nhà điêu khắc, ngôn ngữ tạo hình của Tế Hanh đã tạc nên bức phù điêu hùng vĩ về chân dung con người làng chài rắn chắc, khỏe mạnh như bức tượng đồng nâu với làn da ngăm rám nắng cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Họ là kết tinh cho sức mạnh dãi dầu nắng, gió, sóng biển. Họ là đứa con của biển.

Vẫn con thuyền ra khơi, giờ đây trở về sau một ngày chạy đua cùng sóng gió được nhà thơ nhân hóa giống như một con người, một nhà hiền triết với dáng nằm thư giãn, lặng lẽ, suy tư:

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm 
Nghe chất muối thấm dần trong thở vỏ.

Nghe (cảm nhận bằng thính giác) nhưng ở đây lại nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ; sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế. Không chỉ con người mà ngay đến cả con thuyền cũng thấm đẫm hương vị biển, thấy vị mặn mòi của muối biển đang râm ran trong cơ thể mình hay đó chính là cái dư vị dịu êm mà giản dị của nhịp đời miền quê biển.

Tuổi nhỏ của Tế Hanh chắc chắn đã trải qua cái mùi nồng mặn của những mẻ cá vàng, trong lời ru bát ngát, êm êm của bốn bề sóng vỗ thì mới viết được những câu thơ như thế này. Không là người con của vạn chài cũng không thể viết được những câu thơ như thế. Khi biết âm thầm hóa hồn mình vào hồn thơ để lắng nghe, mở rộng mọi giác quan để phập phồng thu nhận mọi cảm giác Tế Hanh mới viết được những câu thơ tài hoa đến vậy. Phải chăng chất muối mặn mòi, thấm dần trong từng thớ vỏ chiếc thuyền nay đã thấm sâu vào làn da, thớ thịt, tâm hồn Tế Hanh để thành niềm ám ảnh bâng khuâng, kỳ diệu. Tế Hanh thật tài tình và thật tinh khi sống trong lòng sự vật có khả năng nghe thấu tiếng lòng, cảm giác của những vật vô tri. Chẳng thế mà trong lời con đường quê nhà thơ cũng đã nhập hồn vào con đường nhỏ chạy lang thang để mang nỗi buồn vương chạy khắp làn.

Kết thúc bài thơ có hai chữ nhớ:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá

nhưng ý thơ không hề gây cảm giác yếu mềm, bi lụy mà vẫn khỏe khoắn, tươi mới. Nỗi nhớ ấy gắn liền với những gì thân thuộc của làng chài màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, sắc màu trong sáng, hương vị nồng ấm đậm đà . Nỗi nhớ cồn lên, mãnh liệt tồi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.

Đó là hương vị quê hương, hương vị thân thiết, ruột thịt của người thân.

Bài thơ có thể coi là bức tranh quê đẹp, trong sáng, lời thơ khỏe khoắn. Nổi bật trong bức tranh ấy là ba hình ảnh: dân chài lưới, cánh buồm giương, con thuyền. Hình ảnh nào cũng đẹp, sắc nét, phóng khoáng đầy sức sống, đậm đà hương vị biển. Đó có thể coi là nét riêng, điệu hồn quê hương mà nhà thơ vương vấn suốt đời.

Cũng chính vì thế mà bức tranh quê trong nỗi nhớ của Tế Hanh không có nét dáng buồn như bức tranh quê của các nhà thơ mới với đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi quán tranh đứng im im hoa xoan tím rụng tơi bời (Anh Thơ), mà là bức tranh quê với đường nét tươi tắn, khỏe khoắn được họa lên từ tình cảm đậm đà, trong sáng của tuổi hoa niên dành cho quê hương mình.

Nếu không gắn bó, yêu thương quê hương mình bằng tình cảm trong sáng, đằm thắm thì nhà thơ không thể cảm nhận và thể hiện được một cách tài hoa, sinh động những vẻ đẹp của người quê, cảnh quê trong những câu thơ tươi tắn, nồng nàn như vậy.

Quê hương (1939) của Tế Hanh thật đúng là mảnh hồn trong trẻo nhất mà ta gặp trong thơ trước Cách mạng tháng Tám.

Đề bài: Cảm nhận bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Bài làm

Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng hỏi rằng: “Quê hương là gì hở mẹ?/ Mà cô giáo dạy phải yêu”. Quê hương hai tiếng thiêng liêng, da diết khắc khoải, tự thân mỗi người đều có những định nghĩa riêng về nó, nhưng có thể tựu chung lại quê hương chính là những gì gần gũi, thân thuộc nhất đối với mỗi chúng ta. Viết về đề tài quê hương đã có không ít bài thơ hay, xuất sắc và một trong những bài thơ đó chính là bài Quê hương của nhà thơ Tế Hanh.

Quê hương được ông viết vào năm 1939 khi ông còn là học sinh của trường Trung học tại Huế. Những ngày tháng xa quê hương, nỗi nhớ gia đình khắc khoải đã giúp ông hun đúc nên những vần thơ tràn đầy cảm xúc thiết tha, thương nhớ nơi chôn rau cắt rốn.

Làng tôi hai tiếng gọi chao ôi là thân thương, gần gũi để mở đầu nỗi nhớ da diết về quê hương:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông

Hai câu thơ thật ngắn gọn mà cũng chứa biết bao tình cảm, giới thiệu đôi nét về nơi Tế Hanh được sinh ra, là một làng chài ven biển. Giọng thơ tâm tình, tha thiết, rất đỗi dân dã như một lời kể nể chân thành với những người xung quanh. Làng tôi gợi nhắc biết bao kỉ niệm đẹp đẽ, kỉ niệm vể thiên nhiên, cuộc sống lao động của con người nơi đây:

Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên thật trong sáng, đẹp đẽ, chúng làm ta bất giác nhớ đến những câu văn của Nguyễn Tuân khi được ngắm nhìn cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô: “chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi….”. Trong khung cảnh trong lành và thanh bình ấy, những người dân lao động cường tráng, khỏe mạnh trên những chiếc thuyền nhẹ mình băng ra biển. Chỉ trong vài câu thơ ngắn ngủi nhưng Tế Hanh đã sử dụng hàng loạt các hình ảnh so sánh, nhân hóa: như con tuấn mã, như mảnh hồn làng, rướn thân trắng,… diễn tả khung cảnh lao động hăng say, đầy khí thế của cả con người và sự vật. Đặc sắc nhất chính là hình ảnh so sánh cánh buồm được ví với mảnh hồn làng. Ở một làng nghề chài lưới, cánh buồm vốn là biểu tượng cho làng xóm, cho quê hương. Với hình ảnh này, còn ngầm ẩn lòng tự hào và sức mạnh của dân làng chài với ước mơ về một cuộc sống đủ đầy, no ấm, hạnh phúc. Đồng thời nó cũng là biểu tượng cho khát vọng chinh phục biển cả của con người.

Sau một ngày lao động hăng say, vất vả, con người trở về trong niềm vui, hạnh phúc của những chiếc ghe đầy cá:

Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng

Câu thơ đầu mang đậm âm hưởng dân gian: “Ơn trời mưa nắng phải thì Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu/ Nhờ trời hạ kế sang đông/ Làm nghề cày cấy, vun trông tốt tơi” . Câu thơ cho thấy lời cảm tạ chân thành, sâu sắc đến đất trời đã cho một thời tiết thuận lợi, để thu về những mẻ cá đầy khoang. Những con cá tươi ngon, tiếng ồn ào trên bến đỗ đã cho thấy không khí lao động khẩn trương, niềm vui, hạnh phúc về một cuộc sống đủ đầy.

Đằng sau thành quả lao động ấy là sự lao động chăm chỉ, cần cù của những người dân chài lưới. Chân dung họ hiện lên thật đẹp đẽ, tựa như những đứa con của biển cả:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Chỉ với hai chữ nồng thở nhưng cũng đủ để khái quát nhịp sống lao động hăng say, khẩn trương của những người con biển cả. Hai câu thơ sau thật đẹp và lãng mạn, những chiếc thuyền được nhân hóa thành một sinh thể sống, mỏi mệt về nằm nghỉ ngơi sau một ngày hăng say lao động: “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm/ Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” . Những câu thơ cuối cùng của bài là nỗi nhớ khôn nguôi của tác giả về những thứ thân thuộc, gần gũi: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,… cả một đời sâu nặng gắn bó trong kí ức tuổi thơ ông. Tiếng thơ trở nên ngân vang, da diết, giàn trải hơn, đầy nhờ thương.

Bài thơ Quê hương đã ra đời hàng chục năm nhưng mỗi lần đọc lại ta vẫn không ngừng thổn thức, và tìm thấy nỗi nhớ thương quê nhà của chính bản thân trong từng câu chữ ấy. Với ngôn ngữ thơ giản dị, giọng điệu hồn hậu tha thiết kết hợp với các hình ảnh so sánh, nhân hóa đặc sắc, Tế Hanh đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc về quê hương và tình yêu đất nước.